HanParis
16-05-2013, 18:55
http://www.philaweb.fr/components/com_virtuemart/shop_image/product/P/P691_1.jpg
http://www.philaweb.fr/components/com_virtuemart/shop_image/product/P/P691_3.jpg
Lá thơ được khẩn gởi từ SaiGon và đến làng Monpont-S-L'Isle (Dordogne, gần Bordeaux miền Tây Nam nước Pháp) ngày 18 tháng giêng năm 1934. Lá Thư cổ này đang được bán với giá 56€ trên diễn đàn Pháp http://www.philaweb.fr. Đó là thời kỳ của mấy mẫu Ca Dao dưới đây.
Nguon : http://www.philaweb.fr/Philatelie/Lettres/France/Semi-modernes-1900-59/1934-Enveloppe-Par-Avion-SAIGON-PARIS-2-TP-d-Indochine-CAD-P691.html
NHỚ SÀI GÒN QUA CA DAO
Ts. Nguyễn Hữu Phước
Xin nhắc lại ghi chú sau đây về địa danh Lục Tỉnh:
Lục Tỉnh là tên cũ của vùng Đồng Nai Cửu Long (ĐN-CL). Năm 1831 Vua MinhMạng đổi tên các “trấn” thành “tỉnh” và địa danh “Nam Kỳ Lục Tỉnh” từ đó mà có. Địadanh nầy bao gồm phần đất từ phía Nam của Bình Thuận cho đến hết vùng Cà Mau. LụcTỉnh hay Sáu Tỉnh lúc đó gồm Biên Hòa, Gia Định Định Tường, Vĩnh Long, An Giang
và Hà Tiên. (Tên tuổi của Ông Phan Thanh Giản đã gắn liền với lịch sử “Sáu Tỉnh” nầykhi Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, dưới triều vua Tự Đức.Khi Pháp chiếm tất cả Lục Tỉnh và sau nhiều năm bình định xong, năm 1899.Toàn Quyền Paul Doumer ký sắc lệnh chia “Lục Tỉnh” thành 20 tỉnh (theo tác giả PhúĐiền), và ít lâu sau tách rời Cấp (Vũng Tàu) ra khỏi Bà Rịa thành một tỉnh riêng. Tìnhtrạng 21 tỉnh của Miền Đồng Nai Cửu Long kéo dài cho đến hết năm 1975. Để dễ nhớ, ai
đó đã đặt tên tắt cho 21 tỉnh đó:
Gia - Châu - Hà - Rạch - Trà - Sa - Bến
Long - Tân - Sóc - Thủ - Tây - Biên - Mỹ
Bà - Chợ - Vĩnh .- Gò - Cần - Bạc - Cấp
(Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre, LongXuyên, Tân An, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa, ChợLớn, Vĩnh Long, Gò Công, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cấp (Vũng Tàu ngày nay, xưa có tênPháp là Cap Saint Jacques).
Lẽ dĩ nhiên sau khi Pháp rút khỏi VN vào 1955, và dưới thời VN Cộng Hòa, cũngnhư sau 1975, ranh giới của một số tỉnh, và một số địa danh đã có nhiều thay đổi.
Chợ Sài Gòn Hay Chợ Bến Thành
Theo học giả Vương Hồng Sển, Chợ Sài Gòn hay là Chợ Bến Thành nầy đượcbắt đầu xây cất năm 1912 và khánh thành năm 1914.
Vì Chợ ở gần bến sông Sài Gòn và cũng gần thành Sài Gòn xưa kia, nên được gọilà Chợ Bến Thành. Cũng theo Ông VHS, khi Chúa Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn, chiếmlại được vùng Sài Gòn - Gia Định (1790), Ông cho xây một thành lũy theo cách vẽ kiếntrúc của người Pháp, và đặt tên là Quy Thành. Đến năm 1935, vua Minh Mạng ra lệnh
phá bỏ Quy Thành và cho xây lại một thành khác với tên “Thành Sài Gòn”. Năm 1859,Pháp tấn công, và chiếm được Thành Sài Gòn.Không bao lâu, Pháp ra lệnh san bằngthành nầy. Sau đó Pháp lại cho xây một nơi để đồn trú quân viễn chinh có tên là Casernedu Onzième Regiment de l’Infanterie Colonial (Trại Bộ Binh Thuộc Địa đội thứ mười
một). Thành nầy có tên tắt rất phổ thông thời Pháp thuộc là Thành “11è R.I.C” (đọc làOnzième RIC).Gs Phan Tấn Tài cũng có sưu tầm một đoạn lịch sử rất đặc biệt liên quan đến ChợBến Thành . Chúng tôi xin phép trích nguyên văn đoạn tài liệu trên để hiểu rõ câu cadao :
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Xúp lê vội thổi bộ hành lao xao.
“Chợ Bến Thành có trên bến sông thành Phiên An (thành Gia Định), tức sông SàiGòn, nằm giữa cột cờ Thủ Ngữ và rạch Sa Ngư (đường kinh Lấp, boulevard Charner, đạilộ Nguyễn Huệ).Trong những năm binh biến vì loạn Lê Văn Khôi 1832-35 chợ Bến Thành bị tànphá rất nhiều. Sau khi chiến thắng đại đồn Chí Hòa, người Pháp muốn dời chợ BếnThành về nơi khác nên mướn kẻ nặc danh đốt chợ Bến Thành.
Và năm 1870 họ dời chợ này về địa điểm mới là hai bờ rạch Sa Ngư. Đây là địađiểm thứ hai của chợ Bến Thành. Vào thời này đã có tàu đò (nói tới chợ Bến Thành ở vịtrí thứ 2 ông Lý Nhân Phan Thứ Lang viết : ... Các tay cai tổng, hương chức, điền chủ từlục tỉnh đi ghe thuyền, tàu đò lên thành phố chơi hay mua sắm đồ đều tới khu chợ BếnThành này...).Nhưng chỉ mấy năm sau, chợ Bến Thành lại dời một lần nữa, thụt vào sau bờkinh lấp không bao xa, đó là chợ Bến Thành cũ hay chợ Sài Gòn cũ, là địa điểm thứ bacủa chợ Bến Thành, chợ phải dời để lấp con rạch xây đường Kinh Lấp (đường Charner,bây giờ là đại lộ Nguyễn Huệ). Cho đến nay người Sài gòn còn gọi địa điểm thứ 3 này là“chợ cũ“. Chợ Bến Thành hay chợ Sài Gòn ngày nay là địa điểm thứ tư của chợ này(xây cất 1912-1914) và nếu năm 1972 chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không thiếu tiền, tađã có chợ Bến Thành thứ năm theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng.Như vậy, bến tàu chợ Bến Thành chỉ hoạt động trong một thời gian “ít năm” kểtừ 1870 cho tới khi lấp rạch Sa Ngư mà thôi, tức giữa 1870 và 1880.Vì người Nam không gọi xe lửa là tàu và vì luật lệ Pháp không cho phép gắnsoufflet trên xe lửa nên bài ca dao trên nói tới còi tàu của những năm chợ Bến Thành tồntại ở vị trí thứ 2, quãng 40 năm trước khi có đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho (1913).”
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Chợ Bến Thành dời đổi
Người sao khỏi hợp tan
Xa gần giữ nghĩa tào khang
Chớ tham quyền quý, phụ phàng nghĩa xưa.
Có câu khác cùng ý trên:
(Chợ Bến Thành dời đổi,
Người sao khỏi hợp tan.
Xa gần giữ nghĩa tào khang,
Chớ ham nơi quyền quý mà đá vàng xa nhau)
Một Số Câu Ca Dao Liên Quan Đến Sài Gòn Và Các Vùng Lân Cận :
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.
Có người khác truyền miệng câu trên về đèn như sau :
Đèn nào cao cho bằng đèn Sở Thượng*,
Nghĩa nào nặng cho bằng nghĩa trượng phu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.
*Theo Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1) thì Sở Thượng là: “Tên sông làm ranh thiên nhiêngiữa Cam Bốt và VN, ở bìa Đồng Tháp Mười”.
Hoặc:
Trúc mọc bờ ao kêu là trúc thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa,
(Mỹ = Mỹ Tho, tên một tỉnh ở phía Nam Sài Gòn)
Anh đi đâu anh cũng nhớ ghé thăm nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Các câu trên còn được truyền miệng dưới nhiều dạng khác nhau :
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Viết thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Những Câu Ca Dao Do Cố Giáo Sư Vương Hồng Sển Ghi Chép
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.
Ngày đi trăm hoa hẹn hò,
Ngày về vắng bóng con đò Thủ-Thiêm!
*
Trên Sài-Gòn, dưới Mỹ-Tho,
Đâu đâu thiên hạ cũng nhường cho
Về cột cờ Thủ Ngữ ở ven sông Sài Gòn :
Gia Tân* nền tạm thuở xưa,
Ngày nay có dựng cột cờ gần bên
Về chuyện được đi xa khỏi Sài Gòn bằng ghe, (ghe có mũi sơn đỏ) :
Sài Gòn mũi đỏ, Gia Định* xúp lê,
Giã hiền thê ở lại lấy chồng
Thuyền anh ra cửa như rồng lên mây.
Về chuyện làm ăn phải đi xa, cách biệt :
Chợ Sài Gòn cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi mom
Giã em ở lại vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô.
((Tác giả câu ca dao trên dùng chữ “xi mom” thay vì “xi măng” (Pháp: ciment) có lẽ chocó vần với câu kế.))
*Gia Tân, địa danh xưa, nơi có cột cờ Thủ Ngữ, ở bến Chương Dương, sông SàiGòn.
Gia Định lúc xưa là tên của một trong sáu tỉnh của miền ĐN-CL. Diện tích củatỉnh Gia Định lúc đó lớn hơn diện tích của tỉnh Gia Định thời 1954-75 rất nhiều. Ngàynay tên Gia Định hoàn toàn biến mất trên bản đồ.Rạch Giá, xưa là tên của một tỉnh.Liên hệ đến địa danh Gia Định, có câu hò sau đâyPhái nữ lên tiếng trước :
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung :
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng ?
Phái nam liền đáp lại :
Ông Tánh, Ông Nhân, cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia-Định tam hùng.
Trọn nghĩa thủy chung có Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh,trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không!
Vài Câu Ca Dao Khác
Còn một vài câu hát sau đây liên hệ đến địa danh Sài Gòn và vùng lân cận:
Trầu Sài Gòn xé ra nửa lá,
Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi
Buồn tình gá nghĩa mà chơi,
Hay là anh quyết ở đời với em.
Hoặc:
Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
Nghe em có chốn anh đành quăng om (om trà Huế)
Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
Hành khách chẳng có, đá om quăng lò.
Thú dạo chơi ngày xưa dùng xe song mã (xe do 2 con ngựa kéo), lúc chưa có xehơi, hay xe hơi chỉ có một số ít người giàu sử dụng :
Xe mui chiều thả xanh quanh*,
Đôi vòng Bà Chiểu, thích tình dạo chơi
Bà Chiểu : địa danh, nơi có lăng của Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt hay Lăng Ông, cáchchợ Sài Gòn không xa).
[(*Xanh quanh: ghi lại y như sách, có lẽ là chữ đọc trại của chữ loanh quanh hay xungquanh (hay chung quanh.)]
Ngoài ra cò có người chơi chữ :
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai*,
Bước qua Bến Nghé* ngồi nhai thịt bò
Một tác giả vô danh làm câu đối lại :
Chị Xuân thả lưới mùa hè,
Đem cá “thu bè” bán giữa chợ đông
[(Hươu: thú rừng, giống hình dạng con nai; nghé: con bò còn nhỏ. Hươu, nai,nghé, bò: 4 con vật. Xuân, hè (mùa hạ), thu, đông: 4 mùa.)]
[(* Bến Nghé: Bến Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con,do mộttên rất cũ là Kompong Krabey ( bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng ông Đốc phủ TrầnQuang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thường kêu nghé nêngọi là Bến Nghé, Trịnh hoài Đức dịch là " Ngưu-tân". Bến Nghé là cái bến sông Saigoncó tên là sông Bến Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ởBan Bót (theo Gia-định thống chí) .Còn cái rạch Bến nghé nối dài bởi kinh Tàuhủ(Arroyo Chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghégọi là Vàm Bến Nghé.
Bến Nghé = Đồng Nai = địa danh xưa chỉ chung vùng Sài Gòn - Gia Định, hay rộng hơnchỉ cả miền Nam; sông Bến Nghé hay sông Đồng Nai chảy ngang qua vùng Biên Hòa -Sài Gòn.]
Nguon : NamKyLucTinh.org
http://www.philaweb.fr/components/com_virtuemart/shop_image/product/P/P691_3.jpg
Lá thơ được khẩn gởi từ SaiGon và đến làng Monpont-S-L'Isle (Dordogne, gần Bordeaux miền Tây Nam nước Pháp) ngày 18 tháng giêng năm 1934. Lá Thư cổ này đang được bán với giá 56€ trên diễn đàn Pháp http://www.philaweb.fr. Đó là thời kỳ của mấy mẫu Ca Dao dưới đây.
Nguon : http://www.philaweb.fr/Philatelie/Lettres/France/Semi-modernes-1900-59/1934-Enveloppe-Par-Avion-SAIGON-PARIS-2-TP-d-Indochine-CAD-P691.html
NHỚ SÀI GÒN QUA CA DAO
Ts. Nguyễn Hữu Phước
Xin nhắc lại ghi chú sau đây về địa danh Lục Tỉnh:
Lục Tỉnh là tên cũ của vùng Đồng Nai Cửu Long (ĐN-CL). Năm 1831 Vua MinhMạng đổi tên các “trấn” thành “tỉnh” và địa danh “Nam Kỳ Lục Tỉnh” từ đó mà có. Địadanh nầy bao gồm phần đất từ phía Nam của Bình Thuận cho đến hết vùng Cà Mau. LụcTỉnh hay Sáu Tỉnh lúc đó gồm Biên Hòa, Gia Định Định Tường, Vĩnh Long, An Giang
và Hà Tiên. (Tên tuổi của Ông Phan Thanh Giản đã gắn liền với lịch sử “Sáu Tỉnh” nầykhi Pháp đánh chiếm Nam Kỳ, dưới triều vua Tự Đức.Khi Pháp chiếm tất cả Lục Tỉnh và sau nhiều năm bình định xong, năm 1899.Toàn Quyền Paul Doumer ký sắc lệnh chia “Lục Tỉnh” thành 20 tỉnh (theo tác giả PhúĐiền), và ít lâu sau tách rời Cấp (Vũng Tàu) ra khỏi Bà Rịa thành một tỉnh riêng. Tìnhtrạng 21 tỉnh của Miền Đồng Nai Cửu Long kéo dài cho đến hết năm 1975. Để dễ nhớ, ai
đó đã đặt tên tắt cho 21 tỉnh đó:
Gia - Châu - Hà - Rạch - Trà - Sa - Bến
Long - Tân - Sóc - Thủ - Tây - Biên - Mỹ
Bà - Chợ - Vĩnh .- Gò - Cần - Bạc - Cấp
(Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Trà Vinh, Sa Đéc, Bến Tre, LongXuyên, Tân An, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa, ChợLớn, Vĩnh Long, Gò Công, Cần Thơ, Bạc Liêu, Cấp (Vũng Tàu ngày nay, xưa có tênPháp là Cap Saint Jacques).
Lẽ dĩ nhiên sau khi Pháp rút khỏi VN vào 1955, và dưới thời VN Cộng Hòa, cũngnhư sau 1975, ranh giới của một số tỉnh, và một số địa danh đã có nhiều thay đổi.
Chợ Sài Gòn Hay Chợ Bến Thành
Theo học giả Vương Hồng Sển, Chợ Sài Gòn hay là Chợ Bến Thành nầy đượcbắt đầu xây cất năm 1912 và khánh thành năm 1914.
Vì Chợ ở gần bến sông Sài Gòn và cũng gần thành Sài Gòn xưa kia, nên được gọilà Chợ Bến Thành. Cũng theo Ông VHS, khi Chúa Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn, chiếmlại được vùng Sài Gòn - Gia Định (1790), Ông cho xây một thành lũy theo cách vẽ kiếntrúc của người Pháp, và đặt tên là Quy Thành. Đến năm 1935, vua Minh Mạng ra lệnh
phá bỏ Quy Thành và cho xây lại một thành khác với tên “Thành Sài Gòn”. Năm 1859,Pháp tấn công, và chiếm được Thành Sài Gòn.Không bao lâu, Pháp ra lệnh san bằngthành nầy. Sau đó Pháp lại cho xây một nơi để đồn trú quân viễn chinh có tên là Casernedu Onzième Regiment de l’Infanterie Colonial (Trại Bộ Binh Thuộc Địa đội thứ mười
một). Thành nầy có tên tắt rất phổ thông thời Pháp thuộc là Thành “11è R.I.C” (đọc làOnzième RIC).Gs Phan Tấn Tài cũng có sưu tầm một đoạn lịch sử rất đặc biệt liên quan đến ChợBến Thành . Chúng tôi xin phép trích nguyên văn đoạn tài liệu trên để hiểu rõ câu cadao :
Mười giờ tàu lại Bến Thành,
Xúp lê vội thổi bộ hành lao xao.
“Chợ Bến Thành có trên bến sông thành Phiên An (thành Gia Định), tức sông SàiGòn, nằm giữa cột cờ Thủ Ngữ và rạch Sa Ngư (đường kinh Lấp, boulevard Charner, đạilộ Nguyễn Huệ).Trong những năm binh biến vì loạn Lê Văn Khôi 1832-35 chợ Bến Thành bị tànphá rất nhiều. Sau khi chiến thắng đại đồn Chí Hòa, người Pháp muốn dời chợ BếnThành về nơi khác nên mướn kẻ nặc danh đốt chợ Bến Thành.
Và năm 1870 họ dời chợ này về địa điểm mới là hai bờ rạch Sa Ngư. Đây là địađiểm thứ hai của chợ Bến Thành. Vào thời này đã có tàu đò (nói tới chợ Bến Thành ở vịtrí thứ 2 ông Lý Nhân Phan Thứ Lang viết : ... Các tay cai tổng, hương chức, điền chủ từlục tỉnh đi ghe thuyền, tàu đò lên thành phố chơi hay mua sắm đồ đều tới khu chợ BếnThành này...).Nhưng chỉ mấy năm sau, chợ Bến Thành lại dời một lần nữa, thụt vào sau bờkinh lấp không bao xa, đó là chợ Bến Thành cũ hay chợ Sài Gòn cũ, là địa điểm thứ bacủa chợ Bến Thành, chợ phải dời để lấp con rạch xây đường Kinh Lấp (đường Charner,bây giờ là đại lộ Nguyễn Huệ). Cho đến nay người Sài gòn còn gọi địa điểm thứ 3 này là“chợ cũ“. Chợ Bến Thành hay chợ Sài Gòn ngày nay là địa điểm thứ tư của chợ này(xây cất 1912-1914) và nếu năm 1972 chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không thiếu tiền, tađã có chợ Bến Thành thứ năm theo đồ án của kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng.Như vậy, bến tàu chợ Bến Thành chỉ hoạt động trong một thời gian “ít năm” kểtừ 1870 cho tới khi lấp rạch Sa Ngư mà thôi, tức giữa 1870 và 1880.Vì người Nam không gọi xe lửa là tàu và vì luật lệ Pháp không cho phép gắnsoufflet trên xe lửa nên bài ca dao trên nói tới còi tàu của những năm chợ Bến Thành tồntại ở vị trí thứ 2, quãng 40 năm trước khi có đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho (1913).”
Chợ Bến Thành đèn xanh đèn đỏ,
Anh nhìn cho tỏ thấy rõ đèn màu;
Lấy em anh đâu kể sang giàu,
Rau dưa mắm muối có nơi nào hơn em!
Chợ Bến Thành dời đổi
Người sao khỏi hợp tan
Xa gần giữ nghĩa tào khang
Chớ tham quyền quý, phụ phàng nghĩa xưa.
Có câu khác cùng ý trên:
(Chợ Bến Thành dời đổi,
Người sao khỏi hợp tan.
Xa gần giữ nghĩa tào khang,
Chớ ham nơi quyền quý mà đá vàng xa nhau)
Một Số Câu Ca Dao Liên Quan Đến Sài Gòn Và Các Vùng Lân Cận :
Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.
Có người khác truyền miệng câu trên về đèn như sau :
Đèn nào cao cho bằng đèn Sở Thượng*,
Nghĩa nào nặng cho bằng nghĩa trượng phu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em cũng đợi, mười thu em cũng chờ.
*Theo Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1) thì Sở Thượng là: “Tên sông làm ranh thiên nhiêngiữa Cam Bốt và VN, ở bìa Đồng Tháp Mười”.
Hoặc:
Trúc mọc bờ ao kêu là trúc thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa,
(Mỹ = Mỹ Tho, tên một tỉnh ở phía Nam Sài Gòn)
Anh đi đâu anh cũng nhớ ghé thăm nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Các câu trên còn được truyền miệng dưới nhiều dạng khác nhau :
Cúc mọc bờ ao kêu bằng cúc thủy
Chợ Sài Gòn xa, chợ Mỹ cũng xa
Viết thơ thăm hết nội nhà
Trước thăm phụ mẫu, sau là thăm em
Những Câu Ca Dao Do Cố Giáo Sư Vương Hồng Sển Ghi Chép
Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm.
Ngày đi trăm hoa hẹn hò,
Ngày về vắng bóng con đò Thủ-Thiêm!
*
Trên Sài-Gòn, dưới Mỹ-Tho,
Đâu đâu thiên hạ cũng nhường cho
Về cột cờ Thủ Ngữ ở ven sông Sài Gòn :
Gia Tân* nền tạm thuở xưa,
Ngày nay có dựng cột cờ gần bên
Về chuyện được đi xa khỏi Sài Gòn bằng ghe, (ghe có mũi sơn đỏ) :
Sài Gòn mũi đỏ, Gia Định* xúp lê,
Giã hiền thê ở lại lấy chồng
Thuyền anh ra cửa như rồng lên mây.
Về chuyện làm ăn phải đi xa, cách biệt :
Chợ Sài Gòn cẩn đá,
Chợ Rạch Giá cẩn xi mom
Giã em ở lại vuông tròn,
Anh về xứ sở không còn ra vô.
((Tác giả câu ca dao trên dùng chữ “xi mom” thay vì “xi măng” (Pháp: ciment) có lẽ chocó vần với câu kế.))
*Gia Tân, địa danh xưa, nơi có cột cờ Thủ Ngữ, ở bến Chương Dương, sông SàiGòn.
Gia Định lúc xưa là tên của một trong sáu tỉnh của miền ĐN-CL. Diện tích củatỉnh Gia Định lúc đó lớn hơn diện tích của tỉnh Gia Định thời 1954-75 rất nhiều. Ngàynay tên Gia Định hoàn toàn biến mất trên bản đồ.Rạch Giá, xưa là tên của một tỉnh.Liên hệ đến địa danh Gia Định, có câu hò sau đâyPhái nữ lên tiếng trước :
Nghe anh làu thông lịch sử,
Em xin hỏi thử đất Nam-Trung :
Hỏi ai Gia-Định tam hùng,
Mà ai trọn nghĩa thủy chung một lòng ?
Phái nam liền đáp lại :
Ông Tánh, Ông Nhân, cùng Ông Huỳnh Đức,
Ba Ông hết sức phò nước một lòng
Nổi danh Gia-Định tam hùng.
Trọn nghĩa thủy chung có Ông Võ Tánh,
Tài cao sức mạnh,trọn nghĩa quyên sinh,
Bước lên lầu bát giác thiêu mình như không!
Vài Câu Ca Dao Khác
Còn một vài câu hát sau đây liên hệ đến địa danh Sài Gòn và vùng lân cận:
Trầu Sài Gòn xé ra nửa lá,
Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi
Buồn tình gá nghĩa mà chơi,
Hay là anh quyết ở đời với em.
Hoặc:
Anh ngồi quạt quán Bến Thành,
Nghe em có chốn anh đành quăng om (om trà Huế)
Anh ngồi quạt quán Bà Hom,
Hành khách chẳng có, đá om quăng lò.
Thú dạo chơi ngày xưa dùng xe song mã (xe do 2 con ngựa kéo), lúc chưa có xehơi, hay xe hơi chỉ có một số ít người giàu sử dụng :
Xe mui chiều thả xanh quanh*,
Đôi vòng Bà Chiểu, thích tình dạo chơi
Bà Chiểu : địa danh, nơi có lăng của Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt hay Lăng Ông, cáchchợ Sài Gòn không xa).
[(*Xanh quanh: ghi lại y như sách, có lẽ là chữ đọc trại của chữ loanh quanh hay xungquanh (hay chung quanh.)]
Ngoài ra cò có người chơi chữ :
Chị Hươu đi chợ Đồng Nai*,
Bước qua Bến Nghé* ngồi nhai thịt bò
Một tác giả vô danh làm câu đối lại :
Chị Xuân thả lưới mùa hè,
Đem cá “thu bè” bán giữa chợ đông
[(Hươu: thú rừng, giống hình dạng con nai; nghé: con bò còn nhỏ. Hươu, nai,nghé, bò: 4 con vật. Xuân, hè (mùa hạ), thu, đông: 4 mùa.)]
[(* Bến Nghé: Bến Nghé theo Trịnh Hoài Đức là cái bến uống nước của trâu con,do mộttên rất cũ là Kompong Krabey ( bến trâu) đã được Việt hóa. Nhưng ông Đốc phủ TrầnQuang Tuất (1765-1825) cho rằng nơi đây có lắm con cá sấu chúng thường kêu nghé nêngọi là Bến Nghé, Trịnh hoài Đức dịch là " Ngưu-tân". Bến Nghé là cái bến sông Saigoncó tên là sông Bến Nghé, cũng có tên là Tân Bình Giang hay là Đức Giang lấy nguồn ởBan Bót (theo Gia-định thống chí) .Còn cái rạch Bến nghé nối dài bởi kinh Tàuhủ(Arroyo Chinois) ngày xưa có tên là Bình Dương và chỗ nó chảy ra giáp sông Bến Nghégọi là Vàm Bến Nghé.
Bến Nghé = Đồng Nai = địa danh xưa chỉ chung vùng Sài Gòn - Gia Định, hay rộng hơnchỉ cả miền Nam; sông Bến Nghé hay sông Đồng Nai chảy ngang qua vùng Biên Hòa -Sài Gòn.]
Nguon : NamKyLucTinh.org