PDA

View Full Version : Hàng Không Mẫu Hạm (aircraft carrier)


open
15-10-2008, 14:32
aircraft carrier - Hàng Không Mẫu Hạm

17159

Tàu sân bay là một loại phương tiện chiến đấu to lớn, là niềm tự hào đối với các quốc gia có nó. Sỡ hữu một đội tàu hùng mạnh là một nhu cầu một tất yếu với các nước có đường bờ biển dài, hoặc có tham vọng lớn thao túng có đại dương như các nước phương tây, mĩ ...

17126

17127

17128

17129

open
15-10-2008, 14:38
Nguồn gốc

Khi máy bay nặng hơn không khí được phát triển vào đầu thế kỷ 20, nhiều lực lượng hải quân bắt đầu chú ý tới tiềm năng sử dụng chúng để trinh sát những tàu chiến lớn. Nhiều chuyến bay thử nghiệm đã được thiến hành để kiểm tra ý tưởng này.

Eugene Ely là phi công đầu tiên được phóng từ một tàu đứng yên vào tháng 10 năm 1910. Ông đã cất cánh từ một kết cấu được gắn chặt vào phần boong mũi tàu chiếc tuần dương hạm bọc sắt của Mỹ, USS Birmingham tại Hampton Roads, Virginia và hạ cánh ở gần đó trên Mũi đất Willoughby sau vài phút bay trên không. Vào ngày 18 tháng 1 1911 ông trở thành phi công đầu tiên hạ cánh trên một tàu đứng yên. Ông cất cánh từ đường đua Tanforan và hạ cánh trên một kết cấu tạm khác trên đuôi chiếc USS Pennsylvania bỏ neo tại San Francisco bến cảng – hệ thống phanh ngẫu tác gồm các bao cát và những sợi dây dẫn thẳng tới mũi hãm và những sợi dây được miêu tả bên trên. Máy bay của ông sau đó quay tròn và ông không thể cất cánh lại. Sĩ quan chỉ huy Charles Samson, RN, trở thành người đầu tiên cất cánh từ một tàu chiến đang chạy vào ngày 2 tháng 5 1912. Ông cất cánh trông một Short S27 từ tàu chiến HMS Hibernia khi nó đang chạy với tốc độ 10.5 knots (19 km/h) trong cuộc Thao diễn hạm đội hoàng gia ở Weymouth.

17131


17132

HMS Ark Royal là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên. Ban đầu nó là một chiếc tàu buôn, nhưng được hoán cải lại để trở thành một tàu sân bay chở máy bay trên biển. Được đưa vào sử dụng năm 1914, nó phục vụ trong chiến dịch Dardanelles đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất.

17133

Cuộc tấn công đầu tiên từ một tàu sân bay là tấn công một mục tiêu trên đất liền diễn ra ngày 19 tháng 7 1918. Bảy chiếc Sopwith Camel được phóng từ HMS Furious đã tấn công căn cứ Zeppelin của Đức tại Tondern, với hai quả bom 50 lb mỗi quả. Nhiều khí cầu và bóng khí bị phá huỷ, nhưng vì tàu sân bay không có cách nào để thu hồi máy bay một cách an toàn, hai phi công đã bỏ máy bay trên biển cạnh tàu trong khi những người khác bay tới nước Đan Mạch trung lập.

17134

Những năm giữa hai cuộc chiến

Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đã đặt ra những giới hạn chặt chẽ về sức mạnh hải quân sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các giới hạn không chỉ về tổng kích thước của các tàu sân bay, mà còn về giới hạn tối đa là 27,000 tấn cho mỗi chiếc. Mặc dù đã có một số sửa đổi về tổng kích thước (chỉ tính những chiếc trong hạm đội, không tính những chiếc thử nghiệm), không được vượt quá tổng kích thước. Tuy nhiên, trong khi các cường quốc hải quân lớn vượt quá kích thước đối với những chiếc tàu chiến, thì họ không vượt kích thước đối với các tàu sân bay. Vì thế, nhiều tàu chiến và tuần dương hạm đang được chế tạo (hay đang được sử dụng) đã được chuyển đổi thành tàu sân bay. Chiếc tàu đầu tiên có boong phẳng trên toàn bộ chiều dài là chiếc HMS Argus việc hoán cải nó hoàn thành vào tháng 9 1918, với việc Hải quân Hoa Kỳ không following suit until 1920, khi việc hoán cải chiếc USS Langley đã hoàn thành. Hạm đội tàu sân bay đầu tiên của Mỹ chỉ được đưa vào phục vụ năm 1928 (USS Lexington và Saratoga).

17135

17136

Chiếc tàu sân bay thực sự đầu tiên được phát triển là chiếc HMS Hermes, mặc dầu chiếc đầu tiên được biên chế vào hạm đội là chiếc Hosho của Nhật Bản (được biên chế vào tháng 12 năm 1922, tiếp đó là chiếc HMS Hermes vào tháng 7 năm 1923). Thiết kế của chiếc Hermes tiếp nối và có ảnh hưởng từ chiếc Hosho, và việc chế tạo nó trên thực tế được bắt đầu sớm hơn, nhưng nhiều cuộc kiểm tra, thực nghiệm và ngân sách đã làm chậm thời gian hoàn thành nó.

Tới cuối thập kỷ 1930, các tàu sân bay trên thế giới thường mang ba kiểu máy bay: máy bay phóng ngư lôi, cũng được sử dụng cho những vụ ném bom quy ước trinh sát; máy bay ném bom bổ nhào, cũng được sử dụng vào trinh sát (trong Hải quân Hoa Kỳ, kiểu máy bay này được gọi là “máy bay ném bom trinh sát”); và máy bay chiến đấu để bảo vệ hạm đội và hộ tống các máy bay ném bom đi làm nhiệm vụ. Bởi vì khoảng không trên tàu sân bay rất hạn chế, tất cả các máy bay đó đều nhỏ, có một động cơ, và thường có cánh gấp lại để dễ xếp cất.

17137

open
15-10-2008, 14:43
Chiến tranh thế giới thứ hai

Các tàu sân bay đóng một vai trò quan trọng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Với bảy tàu hoạt động, Hải quân hoàng gia có một ưu thế về số lượng to lớn ở đầu cuộc chiến khi cả Đức và Italia đều không có tàu sân bay.

17138

Sự yếu kém rõ ràng này trước các tàu chiến đã thay đổi vào tháng 10 năm 1940 khi chiếc HMS Illustrious tung ra một cuộc tấn công tầm xa vào hạm đội Italia trong Trận Taranto. Chiến dịch này đã làm mất khả năng chiến đấu của ba trong sáu tàu chiến tại cảng và chỉ mất 2 chiếc trong số 21 chiếc máy bay tấn công Fairey Swordfish torpedo bombers. Các tàu sân bay cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố cho Malta, cả bằng cách vận chuyển máy bay và bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho hòn đảo đang bị phong tỏa này. Việc sử dụng các tàu sân bay đã làm cho hải quân Italia và Đức vốn chỉ có căn cứ sân bay trên đất liền không thể thống trị trên vùng Địa trung hải.

17139

Những cải tiến thời chiến

Kinh nghiệm chiến đấu đã cho thấy phát minh “mũi tàu chống bão” của Anh là các sử dụng mũi tàu hữu hiệu nhất, hơn cả súng máy hay một tầng thứ nhì. Loại mũi tàu này đã được sử dụng rộng rãi cho các hàng không mẫu hạm Anh và Mỹ. Hàng không mẫu hạm Nhật Taiho là tàu đầu tiên của Nhật sử dụng phát minh này.

Bắt đầu muộn trong cuộc chiến với lớp tàu sân bay Midway, các tàu sân bay Mỹ đã trở nên to lớn tới mức thực tế việc áp dụng khái niệm thiết kế boong chứa máy bay (hangar deck) trở thành boong mạnh (strenth deck) không còn thích hợp nữa, và mọi tàu sân bay Hoa Kỳ sau này đều có boong cất cánh là boong mạnh, khiến đảo trở thành siêu cấu trúc duy nhất.


17140

Những tàu sân bay hộ tống và Tàu sân bay kiểu tàu buôn

Để bảo vệ các đoàn tàu trên biển Đại Tây Dương, người Anh đã phát triển một kiểu tàu được gọi là tàu sân bay kiểu tàu buôn, chúng vốn là những tàu buôn được trang bị một boong phẳng cho khoảng sáu chiếc máy bay. Chúng được vận hành bởi những đoàn thủy thủ dân sự, treo cờ thương mại, và mang hàng hóa thông thường tuy nhiên vẫn có hỗ trợ bảo vệ bằng không quân. Bởi vì những tàu đó không có thang máy hay chỗ đỗ cho máy bay, việc bảo dưỡng máy bay bị hạn chế và trong suốt cuộc hành trình, máy bay phải đỗ trên boong.

17141

Các tàu sân bay hộ tống sản xuất ở Mỹ thường từ hai kiểu thiết kế thân căn bản: một từ tàu buôn, và một từ tàu chở dầu hơi lớn và tốc độ hơi cao. Bên cạnh việc bảo vệ hộ tống, chúng được sử dụng để vận chuyển máy bay qua biển. Tuy nhiên, một số cũng tham gia vào các trận đánh giải phóng Philippines, nổi tiếng là trận Samar trong đó sáu chiếc tàu sân bay hộ tống và các tàu khu trục đã nhanh chóng tiếp chiến năm tàu chiến Nhật Bản và buộc chúng phải rút lui.

17142

17144

open
15-10-2008, 14:55
Những phát triển thời hậu chiến

Hệ thống phóng thủy lực hiện đại, được cung cấp sức mạnh thủy lực từ các nồi hơi hay các lò phản ứng, được Chỉ huy trưởng C.C. Mitchell Royal Naval Reserve phát minh ra.

17145

Nó đã được ứng dụng rộng rãi sau khi được thử nghiệm nhiều lần trên chiếc HMS Perseus từ giữa 1950 và 1952 nó cho thấy sức mạnh lớn hơn và độ tin cậy cao hơn những hệ thống phóng dùng khí nén vốn từng được đưa vào sử dụng từ thập kỷ 1930. Hiện tại, chỉ các tàu sân bay dùng năng lượng hạt nhân là có các nồi hơi như một phần trong hệ thống sức mạnh chuyển động của nó, đa phần các tàu sân bay hiện nay được trang bị thiết bị phát hơi chỉ dùng để cung cấp năng lượng cho các máy phóng.

Một sáng chế khác của người Anh là bộ phận chỉ thị độ dốc trượt (glide-slope indicator) (cũng được gọi là “thịt viên”). Đó là một cái đèn được điều khiển kiểu con quay hồi chuyển (gyroscopically-controlled lamp) ở phía hạ cánh của boong, và được phi công đang sắp hạ cánh quan sát thấy, chỉ thị cho anh ta thấy anh ta đang ở quá cao hay quá thấp so với đường lượn xuống chính xác. Nó cũng tính toán sẵn ảnh hưởng của sóng đối với boong. Thiết bị này đã trở nên cần thiết khi tốc độ hạ cánh của máy bay ngày càng tăng lên.

17146

Hải quân Hoa Kỳ từ sớm đã cố gắn để trở thành một lực lượng hạt nhân chiến lược với kế hoạch chế tạo chiếc USS United States (CVA-58), thuật ngữ CVA, với chữ “A” để biểu thị “hạt nhân”. Chiếc tàu này mang các máy ném bom cánh quạt đôi, mỗi chiếc có thể mang một quả bom hạt nhân. Dự án này đã bị hủy bỏ dưới sức ép của lực lượng mới được thành lập gần đây là Không lực Hoa Kỳ, và chữ “A” được dùng lại với ý nghĩa “tấn công.” Nhưng điều này chỉ làm chậm sự lớn mạnh của các tàu sân bay. Các vũ khí hạt nhân sẽ được mang ra biển bất chấp sự phản đối của Không quân năm 1955 trên chiếc USS Forrestal, và tới cuối thập niên năm mươi Hải quân đã có nhiều máy bay tấn công trang bị vũ khí hạt nhân.

17147

Hải quân Hoa Kỳ mang vũ khí hạt nhân trên biển theo cách khác bằng cách chế tạo các tàu sân bay có trang bị các lò phản ứng hạt nhân. Chiếc USS Enterprise là chiếc tàu sân bay đầu tiên được cung cấp năng lượng theo kiểu này và những chiếc siêu tàu sân bay này có ưu thế vì kiểu công nghệ đó cho phép chúng hoạt động lâu dài trên biển. Một quốc gia khác duy nhất học theo Hoa Kỳ là Pháp với chiếc Charles de Gaulle.

Những năm hậu chiến cũng chứng kiến sự phát triển của máy bay trực thăng với nhiều khả năng khác biệt so với máy bay chiến đấu. Trong khi các máy bay có cánh cứng thường có nhiệm vụ chiến đấu không đối không và không đối đất thì các máy bay trực thăng được sử dụng để vận chuyển trang thiết bị và con người và có thể được sử dụng trong vai trò chiến tranh chống tàu ngầm với thiết bị siêu âm thả xuống nước và các tên lửa.


17148

Vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, Anh Quốc đã hoán cải một số tàu sân bay cũ của họ thành các tàu sân bay chở quân biệt kích, và những chiếc máy bay trên biển kiểu HMS Bulwark. Để chiến đấu chống lại những ý nghĩa đắt giá của thuật ngữ “tàu sân bay”, chiếc tàu loại mới lớp Invincible ban đầu được chỉ định “thông qua boong các tuần dương hạm” và chở các máy bay trực thăng với nhiệm vụ hộ tống. Khi loại máy bay Sea Harrier xuất hiện, chúng đã có thể mang cả máy bay cánh cứng dù có đường băng ngắn.

17149

Các chiến dịch tàu sân bay của Liên hiệp quốc trong Chiến tranh Triều Tiên

Liên hiệp quốc đã thực hiện các chiến dịch tàu sân bay chống lại The United Nations command began carrier operations against the Quân đội Bắc Triều Tiên ngày 3 tháng 7, 1950 để đáp trả lại việc họ tấn công Nam Triều Tiên. Lực lượng tấn công 77 lúc đó gồm các tàu sân bay Valley Forge và HMS Triumph. Trước cuộc đình chiến vào ngày 27 tháng 7, 1953, 12 tàu sân bay Mỹ đã 27 lần tuần tiễu trong vùng biển Nhật Bản như một phần thuộc lực lượng tấn công 77.

Một đơn vị thứ hai, Lực lượng tấn công 95, được dùng làm lực lượng phong tỏa ở Biển Vàng ngoài khơi Bắc Triều Tiên. Lực lượng này gồm một tàu sân bay hạng nhẹ của các nước khối thịnh vượng chung (Triumph, Theseus, Glory, Ocean, and HMAS Sydney) và một tàu hộ tống của Mỹ (Badoeng Strait, Bairoko, Point Cruz, Rendova, and Sicily).

Hơn 301,000 cuộc tấn công từ các tàu sân bay đã được tung ra trong Chiến tranh Triều Tiên: 255,545 vụ bởi các máy bay của Lực lượng tấn công 77, và 20,375 vụ bởi các tàu sân bay hộ tống của Lực lượng tấn công 95. Hải quân Hoa Kỳ và Marine Corps carrier-based thiệt hại 541 máy bay. Hạm đội không quân thiệt hại 86 máy bay trong chiến đấu, và Hạm đội không quân Australia thiệt hại 15 chiếc.

17150

Các chiến dịch tàu sân bay Mỹ ở Đông Nam Á

Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành “một cuộc chiến kéo dài nhất, cay đắng nhất, và đắt giá nhất” (René Francillon) trong lịch sử hàng không hàng hải từ ngày 2 tháng 8 năm 1964 đến 15 tháng 8 năm 1973 trên vùng Biển Nam Trung Quốc. Xuất phát từ hai cứ điểm là (Yankee Station và Dixie Station), tàu sân bay đã hỗ trợ các chiến dịch tấn công ở Nam Việt Nam và tiến hành các chiến dịch ném bom chung với Không quân Hoa Kỳ ở Bắc Việt nam trong các Chiến dịch Flaming Dart, Chiến dịch Rolling Thunder, và Chiến dịch Linebacker.

21 tàu sân bay (tất cả các tàu sân bay tấn công đang hoạt động trong giai đoạn đó trừ John F. Kennedy) được bố trí vào Lực lượng tấn công 77 của Hạm đội số 7 của Mỹ, tiến hành 86 cuộc tuần tra và hoạt động tổng cộng 9,178 trên giới tuyến tại Vịnh Bắc Bộ. 530 thiệt hại trong chiến đấu và 329 chiếc nữa vì tai nạn khi hoạt động, làm thiệt mạng 377 phi công của hải quân, cùng 64 người bị coi là mất tích và 179 người bị bắt làm tù binh chiến tranh. 205 sỹ quan và binh lính trên ba tàu sân bay (Forrestal, Enterprise, và Oriskany) tử trận trong các trận đánh lớn.

17151

Các tàu sân bay hiện nay

Các tàu sân bay thường là những tàu lớn nhất được điều hành bởi các lực lượng hải quân; một chiếc thuộc lớp Nimitz được lắp hai lò phản ứng hạt nhân và bốn turbine hơi dài 1092 ft (333 m) và có giá khoảng 4.5 tỷ US dollar. Hoa Kỳ sở hữu nhiều tàu sân bay nhất với khoảng hơn mười chiếc đang hoạt động, và các tàu sân bay của họ là nền tảng để phô trương khả năng quyền lực Hoa Kỳ.

Chín nước có sở hữu các tàu sân bay là: Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Brazil, Italy, Ấn Độ và Thái Lan. Hơn nữa Quân đội giải phóng nhân dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sở hữu chiếc tàu sân bay cũ của Liên xô chiếc Varyag, nhưng đa số các nhà phân tích hải quân tin rằng họ không có ý định đưa nó vào sử dụng, mà chỉ sử dụng chiếc Varyag để học cách sử dụng các tàu sân bay Trung Quốc trong tương lai. Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Pakistan, Australia, Chile, New Zealand và Singapore cũng đang sở hữu các tàu mang máy bay trực thăng.

Thông thường các tàu sân bay được hộ tống theo bởi nhiều tàu khác, để bảo vệ chiếc tàu to lớn đó, để cung cấp hậu cần, và để tăng khả năng tấn công. Những nhóm này thường được gọi bằng thuật ngữ nhóm chiến đấu hay nhóm tàu sân bay, thỉnh thoảng là một nhóm tàu sân bay chiến đấu.

17152

Các tàu sân bay hiện đại

Việc sử dụng tàu sân bay gần đây gồm trong chiến tranh Falklands, khi Anh Quốc đã có thể chiến thắng trong một cuộc xung đột cách nước họ 8,000 dặm (13,000 km) phần lớn nhờ ở việc sử dụng chiếc tàu sân bay cỡ lớn HMS Hermes và chiếc nhỏ hơn HMS Invincible. Chiến tranh Falklands cho thấy giá trị của những chiếc máy bay kiểu VSTOL – chiếc Hawker-Siddeley Harrier (loại RN Sea Harrier và press-ganged RAF Harriers) trong việc bảo vệ hạm đội và lực lượng tấn công khỏi sự tấn công của các máy bay từ trên bờ và trong tấn công đối phương. Các máy bay trực thăng từ các tàu sân bay được sử dụng để triển khai quân và thu hồi quân lính bị thương.

17153

Người Mỹ cũng đã sử dụng các tàu sân bay ở Vịnh Péc xích, Afghanistan và để bảo vệ các quyền lợi của họ ở Thái bình dương. Gần đây nhất, trong cuộc tấn công Iraq năm 2003 đã đề cao khả năng của các tàu sân bay trong vai trò căn cứ hàng đầu của không lực Hoa KỲ. Thập chí không có khả năng có nhiều căn cứ không quân ở Trung Đông, Hoa Kỳ vẫn có thể tung ra những cuộc tấn công đáng kể từ các phi đội xuất phát từ các tàu sân bay.

Đầu thế kỷ 21, các tàu sân bay trên khắp thế giới đã có khả năng mang khoảng 1250 máy bay. Hoa Kỳ chiếm hơn 1000 chiếc trong số đó; nước đứng thứ hai là Anh Quốc với hơn 50 chiếc. Anh Quốc và Pháp cả hai đều đang tiến hành mở rộng khả năng về tàu sân bay của họ (với một lớp tàu thông thường), nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí đầu bảng của mình với khoảng cách khá xa.

17155

open
15-10-2008, 15:15
17160

Bộ FDC sau open thích nhất là món này:-* nhưng ..... :(( ngắm từ xa thôi chứ làm sao bây giờ . :((:((:((

open
15-10-2008, 15:30
Sau đây là vài con lẻ, nhặt nhặn được trên net, mang ra cùng phuc vụ mọi người. :-h Tạm đặt tên cho từng con vì thèm lắm nhưng ... ực ực :(( làm sao mua được đây ...:((:((

Rẽ sóng lướt đi

17184

Chúng ta bên nhau

17185

Chìm òi ......:((

17186

Con này BÁC HUỆ có tặng cho OPEN ( cả dấu mắt bò nữa ... hi hi) open cám ơn bác nhiều nhiều lắm ạ !
17187

Đơn độc

17188

open
15-10-2008, 15:50
Tiếp đó là những bộ nguyên khá đẹp mà cũng ..... ực ực ...........:((:((:((

Bộ tem của Ấn Độ không thấy năm phát hành ???

17189

Bộ này open rất thích và đã mua hụt mấy lần ..... :((b-(

17190

Cái này lạ quá ???? b-(

17191

Block này thật là HOÀNH TRÁNG

17192

.... Và thật ấn tượng ....

17193

Bay lượn ... và đáp xuống ....

17194

Đổ máu cả trời chiều

17195

Hình như cái này vớt từ dưới biển lên thì phải ...?????:(

17196

Thật cân xứng :-*

17197

Và sau cùng là một bộ mới phát hành, khá đẹp về màu sắc và nội dung chi tiết, có dịp open sẽ tậu lấy nó ngay.

17200
1720117202

open
15-10-2008, 15:53
Cám ơn INTERNET đã giúp em thực hiện bài này ... hi hi hi :))

Mọi người thế nào ??? Xem xong cứ cho open ý kiến-đóng góp-bổ sung vào bài này nhé.
Chờ đón sự có mặt của mọi người nhiều nhiều lắm ... OPEN. Trân Trọng.

tomiboy
15-10-2008, 16:08
hay quá xá em cũng rất mê tàu sân bay thank anh nhá:D

hat_de
15-10-2008, 16:09
Cám ơn INTERNET đã giúp em thực hiện bài này ... hi hi hi :))

Mọi người thế nào ??? Xem xong cứ cho open ý kiến-đóng góp-bổ sung vào bài này nhé.
Chờ đón sự có mặt của mọi người nhiều nhiều lắm ... OPEN. Trân Trọng.

hì hì
phải công nhận là giờ có nhìu bạn trẻ nhiệt tình
kiếm tem và tổng hợp kiến thức là 2 hoạt động song song của người chơi tem

thế giới mạng cho ta tập dượt cái đó và hoàn thiện mình

có lẽ vài năm nữa nhìn lại OPEN sẽ thấy mình có thể nâng cấp được đề tài này thếm nhìu nữa, thậm chí có thể làm thành bộ TL

bài trên của em có nhiều chỗ xen cảm nhận, bình luận, cảm xúc và trải nghiệm của mình với 1 số mẫu tem, điều ấy cũng hay hay. Trước đây anh cũng hay làm và bị mắng, có lẽ ko phải cái đó, mà vì anh chen nhìu cái đó vô bài quá trong khi thông tin thì ít, mặc dù có thể bụp trên nét vô.

Thoai ! em vất vả roài ! 1 lần nữa cảm ơn em vì đã cố gắng, hy vọng sau nầy được thưởng thức những tác phẩm hoàn thiện hơn nữa :D

open
15-10-2008, 21:10
To: tomy
............"hay quá xá em cũng rất mê tàu sân bay thank anh nhá".................

:-h Bạn có chơi qua món này chưa bạn ? Có thì tụi mình cùng trao đổi thông tin nhé.:">

open
15-10-2008, 21:15
Được đánh giá là một trong những biểu tượng của hải quân Mỹ, tầu sân bay được ví như một hòn đảo di động và có khả năng tham chiến với mức độ cơ động cao. Chiều dài mỗi tàu sân bay vào khoảng 333m và có thể đáp ứng được yêu cầu hạ cánh và cất cánh của các máy bay chỉ trong vòng 25 giây. Chúng ta sẽ tìm hiểu về Nimizt, một trong số các lớp tầu sân bay hiện đại nhất hiện nay của hải quân Mỹ.

17209

Với hàng tỉ bộ phận, siêu tầu sân bay lớp Nimizt là một trong những cỗ máy phức tạp nhất trên thế giới. Nhưng nếu xét ở mức độ khái niệm nó lại hết sức đơn giản. Nó được thiết kế để thực hiện bốn công việc cơ bản sau:

* Vận chuyển các loại máy bay trên biển.
* Cho phép máy bay cất cánh và hạ cánh.
* Hoạt động như một trung tâm chỉ huy từ xa cho các hoạt động quân sự.
* Là nơi ở và sinh hoạt cho thuỷ thủ đoàn.

17212

Một trong số những trở ngại chính của việc sử dụng không lực trong chiến tranh là tạo được các điểm đỗ cho máy bay. Để xây dựng và duy trì một căn cứ không quân ở nước ngoài, nước Mỹ hay bất cứ quốc gia nào phải đạt được những thoả thuận với quốc gia đó. Điều này thường cực kỳ khó khăn do nhiều điều kiện, đặc biệt ở một số khu vực trên thế giới.

Tầu sân bay có thể di chuyển với tốc độ tối đa 35 knot (40 dặm/h, 64 km/h) và có khả năng đi tới bất cứ đâu trên biển trong vài tuần. Hiện tại hải quân mỹ có sáu hạm đội thường trực sẫn sàng di chuyển mọi lúc mọi nơi cần thiết.

open
15-10-2008, 21:21
Các tầu sân bay được thiết kế có thể mang tới 70-80 máy bay các loại. Có thể kể ra một số loại máy bay quân sự thường có trên các tầu sân bay như: F/A-18 Hornet, F-14 Tomcat, E-2C Hawkeye, S-3B Viking, EA-6B Prowler, SH-60 Seahawk. Khả năng tác chiến hạm đội với tầu sân bay là trung tâm chỉ huy được đánh giá rất cao với sức mạnh trên không và trên biển.

17213

Ngay khi máy bay tiếp cận mặt boong, phi công sẽ đẩy động cơ tới mức tối đa, thay vì đưa về mức thấp để hãm máy bay lại. Điều này có vẻ vô lý, nhưng nếu Tailhook ở phía đuôi máy bay không vướng vào bất cứ Arresting Wire nào thì máy bay vẫn đủ tốc độ để cất cánh lại, tiếp tục bay và tìm cách hạ cánh sau. Sau khi hạ cánh, máy bay được tháo khỏi Arresting Wire và được xích vào phía rìa của đường băng. Các máy bay khi đỗ trên Flight-deck đều được cố định chặt để bảo vệ khỏi các xô lệch khi tầu gặp sóng lớn.

17217


Những người phục vụ trên đường băng phải chuẩn bị đối phó với mọi tình huống, đặc biệt khi máy bay bị cháy. Họ được trang bị rất nhiều thiết bị như xe cứu hoả, vòi cứu hoả, bọt cứu hoả. Họ cũng thường xuyên phải đối mặt với nguy cơ từ phản lực động cơ máy bay. Hệ thống lưới bao xung quanh Flight-deck giúp giảm bớt nguy cơ này. Tuy nhiên họ cũng được trang bị áo phao tự bơm với đèn cứu hộ được kích hoạt ngay khi tiếp xúc với nước. Ngoài ra những người phục vụ trên Flight-deck còn được trang bị mũ bảo hộ có tính năng giảm tối đa tác động của âm thanh.

17220

17221

Rua
15-10-2008, 22:33
"Các chiến dịch tàu sân bay Mỹ ở Đông Nam Á

Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành “một cuộc chiến kéo dài nhất, cay đắng nhất, và đắt giá nhất” (René Francillon) trong lịch sử hàng không hàng hải từ ngày 2 tháng 8 năm 1964 đến 15 tháng 8 năm 1973 trên vùng Biển Nam Trung Quốc. Xuất phát từ hai cứ điểm là (Yankee Station và Dixie Station), tàu sân bay đã hỗ trợ các chiến dịch tấn công ở Nam Việt Nam và tiến hành các chiến dịch ném bom chung với Không quân Hoa Kỳ ở Bắc Việt nam trong các Chiến dịch Flaming Dart, Chiến dịch Rolling Thunder, và Chiến dịch Linebacker....."


"trên vùng Biển Nam Trung Quốc"(1) cụm từ này cần phải xem xét lại là " trên vùng biển phía nam Trung Quốc". Có thể vì lý do chính trị mà cụm từ trên khi sử dụng sẽ rất khó nghe cho nhiều người nhưng có thể hiểu rằng đây là khu vực biển Đông. Nếu sử dụng (1) có nghĩa là chúng ta chấp nhận vùng biển phía nam TQ là (1) tuy chỉ khác có một chữ "phía".


Nếu chúng ta am hiểu một chút về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ và sự leo thang chiến tranh của ĐQ Mỹ thì sẽ rõ hơn về vùng biển hoạt động của Hải Quân Mỹ cũng như sự xuất hiện của các loại tàu sân bay của Hải Quân Mỹ tại khu vực này thời điểm này.

huuhuetran
16-10-2008, 11:15
Open ơi , cái con tem Mỹ chỗ Open ghi là chìm òi , có chưa Bác sẽ gửi tặng , mà nó phải là hàng không mẫu hạm không ?

open
16-10-2008, 14:26
.........."Open ơi , cái con tem Mỹ chỗ Open ghi là chìm òi , có chưa Bác sẽ gửi tặng , mà nó phải là hàng không mẫu hạm không ?"................

Thưa Bác Huệ : Con mà áac đề cập open đã xem lại, hình như đó là TÀU ĐỔ BỘ :((:(( dù sao cũng muốn mở rộng đề tài chơi nên open xin trân trọng được nhận nhã ý của Bác. Và thư sau mong Bác cứ gửi lên cho open, Bác nhé.
Trân trọng!
OPEN.

open
16-10-2008, 14:46
Hải quân Pháp đã đưa ra các kế hoạch cho một tàu sân bay thứ hai, để bổ xung thêm cho chiếc Charles de Gaulle. Thiết kế chiếc này lớn hơn, với phạm vi chiếm nước 50–60,000 tấn, và không sử dụng động cơ năng lượng hạt nhân như chiếc Charles de Gaulle. Đã có kế hoạch để biến Thiết kế hải quân Hoàng gia cho các chiến dịch CATOBAR (thiết kế Thales/BAE Systems cho hải quân hoàng gia là cho tàu sân bay STOVL có thể cải tổ cấu hình cho các chiến dịch CATOBAR).

17487

Ấn Độ đã bắt đầu chế tạo một chiếc tàu sân bay 37,500 tấn, 252 mét dài vào tháng 4, 2005. Chiếc tàu sân bay mới sẽ có giá 762 triệu US dollar và sẽ mang theo các máy bay MiG 29K ‘Fulcrum’ và Sea Harrier cùng với các máy bay trực thăng do Ấn Độ và Nga cùng chế tạo. Chiếc tàu này sẽ có bốn động cơ turbine và khi hoàn thành sẽ có tầm hoạt động 7,500 dặm biển, mang theo 160 sỹ quan, 1400 binh lính và 30 máy bay. Chiếc tàu đang được đóng tại một xưởng đóng tàu nhà nước ở phía nam Ấn Độ. Năm 2004, Ấn Độ cũng mua chiếc Admiral Gorshkov từ Nga với giá 1.5 tỷ US dollar; nó đang sắp được biên chế vào Hải quân Ấn Độ vào năm 2008 sau khi được sửa chữa

17488

Việc chế tạo các tàu sân bay kiểu V/STOL cho Quân đội trên biển(Marina Militare) Cavour có động cơ quy ước đã bắt đầu năm 2001. Nó đang được Fincantieri của Italy đóng. Sau nhiều lần trì hoãn, Cavour được chờ đợi sẽ đưa vào phục vụ năm 2008 để hỗ trợ thêm cho những chiếc tàu sân bay trong lực lượng Quân đội trên biển hiện nay Giuseppe Garibaldi. Một chiếc thứ hai với phạm vi chiếm nước 25-30,000 tấn đang được Hải quân Italia trông đợi, để thay thế chiếc tàu đã bị loại bỏ Vittorio Veneto, nhưng vì các lý do tài chính, phát triển thêm nữa vẫn còn đang đứng im.

17489

Tháng 6, 2005, trên trang web boxun.com có thông báo rằng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sẽ chế tạo một chiếc tàu sân bay có giá 362 triệu US dollar với trọng lượng nước rẽ 78,000 tấn, nó được chế tạo bởi Xưởng đóng tàu mật Jiangnan ở Thượng Hải. Báo cáo này đã bị quan chức Bộ quốc phòng Trung Quốc là Zhang Guangqin bác bỏ. Nhiều cuộc đàm phán trước kia để mua tàu sân bay từ Nga và Pháp đã không thành công.

Hai chiếc tàu này sẽ là những chiếc tàu chiến lớn nhất từng được chế tạo cho Hải quân hoàng gia. Ban đầu chúng được định dạng cho các chiến dịch STOVL, những chiếc tàu sân bay có thể được điều chỉnh cho thích ứng với mọi kiểu thế hệ máy bay tương lai được bố trí trên chúng.

17490

Tây Ban Nha

Dự án cho chiếc tàu dài 231 và lượng rẽ nước 25,000–30,000 tấn dùng động cơ quy ước Buque de Proyección Estratégica (tàu dự án chiến lược) cho hải quân Tây Ban Nha được thông qua năm 2003, và việc chế tạo nó đã bắt đầu vào tháng 8, 2005, công ty đóng tàu Navantia chịu trách nhiệm dự án. Chiếc Buque de proyección estratégica là một chiếc tàu được thiết kế để hoạt động như tàu tấn công đổ bộ và tàu sân bay kiểu VSTOL, phụ thuộc vào nhiệm vụ được giao. Thiết kế nó dành cho những cuộc xung đột ở tầm thấp mà có thể Hải quân Tây Ban Nha sẽ phải đối mặt trong tương lai. Khi hoạt động như một tàu sân bay kiểu VSTOL, tầm điều hành của nó sẽ khoảng 25,000 tấn, và nó sẽ mang tối đa 30 Matador AV-8B+, F-35 hay một nhóm hỗn hợp cả hai loại máy bay trên. Chiếc tàu này có một Sky-Jump và một hệ thống chiến đấu dựa trên radar ba chiều, và nó sẽ là chiếc tàu sân bay thứ hai của hải quân Tây Ban Nha sau chiếc Príncipe de Asturias

17491

Hải quân Hoa Kỳ

Hạm đội những chiếc tàu sân bay Nimitz-lớp Hoa Kỳ sẽ tiếp tục được sử dụng (và trong một số trường hợp được thay thế) bởi chiếc CVN-21/CVNX Carrier. Họ hy vọng rằng những chiếc tàu này sẽ lớnhơn và sẽ mang hơn 80 máy bay hay nhiều hơn nữa so với lớp Nimitz, và cũng sẽ được thiết kế để khó bị radar phát hiện.

17492

Từ đầu thập niên 1990 trở đi, Hải quân LX lần lượt xây dựng các tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov (tên trước đó là Tbilisi), Varyag (tên trước đó là Riga), trọng tải 67.500 tấn, thủy thủ đoàn 1700 người. Đây là loại tàu sân bay đích thực có khả năng chở các máy bay cất-hạ cánh bình thường như Su-27K, Mig-29K, Su-25… Chiếc Đô đốc Kuznetsov được hạ thủy năm 1991 còn chiếc Varyag, khởi công chế tạo năm 1988 nhưng đến nay vẫn chưa hoàn chỉnh, vẫn còn nằm ? ? hải quân công xưởng Nikolayev Nam, Ukraina.

17493

Liên bang Nga hiện đang phát triển một thiết kế tàu sân bay mới. Chúng bắt đầu từ vạch xuất phát để chế tạo một kiểu hiện đại, với những vật liệu và thiết bị điện tử mới nhất. Nhu cầu có thể là hai chiếc – một cho Hạm đội Baltic Nga và một cho Hạm đội Thái bình dương Nga. Việc chế tạo được dự định bắt đầu từ năm 2010, và kết thúc sau khoảng 6 năm.

17494

17495

huuhuetran
17-10-2008, 06:22
Bác rất vui khi được xem các tư liệu về hoa tulip , hôm nay là chuyên đề hàng không mẫu hạm , rất công phu ." Chơi tem là mở mang kiến thức " .Đúng như thế phải không cháu ? Bác sẽ gửi tặng OPEN mẫu tem nói trên !

congacon
17-10-2008, 09:53
Bác Gà tiếp một tay với bạn open về các Hàng Không Mẩu Hạm của Mỹ đã tham chiến ở Việt Nam . Những bì thư kỷ niệm này cũng không mắc lắm khoảng 5 đô một cái nhưng giá này cách đây khoảng 5 năm bây giờ hiếm thấy trên thị trường .Danh sách các tàu này theo thứ tự abc.... đã tham chiến nhiều lần trong cuộc chiến VN .


Hàng Không Mẩu Hạm USS America CV-66 .

17651

Hàng Không Mẩu Hạm USS Bon Hom Richard CVA-31 .

17652

Hàng Không Mẩu Hạm USS Contellation CVA-64 .

17653

Hàng Không Mẩu Hạm USS Coral Sea CVA-43 .

17654

Hàng Không Mẩu Hạm USS Entrepid CVA-11 .

17655

Hàng Không Mẩu Hạm USS Forrestal CVA-59 .

17656

Hàng Không Mẩu Hạm USS Hancock CVA-19 .

17657

Hàng Không Mẩu Hạm USS Kearsarge CVS-33 .

17658

Hàng Không Mẩu Hạm USS Okinawa LPH-3 .

17659

Hàng Không Mẩu Hạm USS Shangri-La CVS-38 .

17660

Hàng Không Mẩu Hạm USS Ticonderoga CV-14

17661

open
17-10-2008, 10:31
OPEN xin chân thành cám ơn những đóng góp chia sẻ của bác Congacon. =D>
Mấy món trên đúng là chỉ 5 đô vào 5 năm trước còn bây giờ thì ... có chúa mới biết là bao nhiêu ... :((
Riêng món này thì open đã từng cầm tận tay từ một bậc lão làng trong làng tem TP. Và cái giá của nó thật là tròn trĩnh : 300.000 VND:((:((

17662

congacon
17-10-2008, 22:07
OPEN xin chân thành cám ơn những đóng góp chia sẻ của bác Congacon. =D>
Mấy món trên đúng là chỉ 5 đô vào 5 năm trước còn bây giờ thì ... có chúa mới biết là bao nhiêu ... :((
Riêng món này thì open đã từng cầm tận tay từ một bậc lão làng trong làng tem TP. Và cái giá của nó thật là tròn trĩnh : 300.000 VND:((:((

17662

Cái ông lão làng này sang tay cái bì thư của bác gà kiếm lời ngon quá xá , bác gà mới liên lạc được với anh chàng dealer chuyên về các bì thư Navy anh ta cũng còn một số nếu các bạn muốn mua thì bác gà mua dùm cho với giá của anh dealer này là 4.99 một cái bì thư HKMH tiền cước thêm 65 cent cho một bì thư .

open
02-06-2009, 11:26
Chào mọi người.
Như lần trước OPEN có đưa lên loạt bài về USS, thật vui và may mắn vì đã được mọi người quan tâm :

Nay, OPEN xin được trích dẫn thêm các thông tin CẬP NHẬT về loại MẪU HẠM khổng lồ này, hy vọng phần nào chia sẻ kiến thức với mọi người và mong mọi người cùng chia sẽ. OPEN !

open
02-06-2009, 11:30
USS Missouri (BB-63) ("Mighty Mo" hay "Big Mo") là một thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa của Hải quân Hoa Kỳ và là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải quân Mỹ mang cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang Missouri. Missouri là chiếc thiết giáp hạm cuối cùng mà Hoa Kỳ chế tạo, và là địa điểm ký kết văn kiện đầu hàng vô điều kiện của Đế quốc Nhật Bản, chấm dứt Thế chiến thứ hai.

Missouri được đặt hàng vào năm 1940 và được đưa vào hoạt động vào tháng 6 năm 1944. Tại Mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai, nó tham gia các trận đánh Iwo Jima và Okinawa cũng như nả đạn pháo xuống các hòn đảo chính quốc Nhật Bản. Sau thế chiến, Missouri tham gia chiến tranh Triều Tiên từ năm 1950 đến năm 1953. Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1955 và được đưa về hạm đội dự bị Hải quân Mỹ, nhưng sau đó được đưa trở lại hoạt động và được hiện đại hóa vào năm 1984 như một phần của kế hoạch 600 tàu chiến Hải quân, và đã tham gia chiến đấu năm 1991 trong chiến tranh vùng Vịnh.

Missouri nhận được tổng cộng mười một ngôi sao chiến đấu cho các hoạt động trong Thế chiến thứ hai, chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh vùng Vịnh, và cuối cùng được cho ngừng hoạt động vào ngày 31 tháng 3 năm 1992, nhưng vẫn được giữ lại trong Đăng bạ Hải quân cho đến khi tên nó được gạch bỏ vào tháng 1 năm 1995. Đến năm 1998 nó được trao tặng cho hiệp hội “USS Missouri Memorial Association” và trở thành một tàu bảo tàng tại Trân Châu Cảng, Hawaii.

44541

open
02-06-2009, 11:56
44546

Missouri là một trong số các "thiết giáp hạm nhanh" lớp Iowa được thiết kế vào năm 1938 bởi Chi nhánh Thiết kế Sơ thảo của Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa. Nó được hạ thủy ngày 29 tháng 1 năm 1944 và được đưa vào hoạt động vào ngày 11 tháng 6. Đây là chiếc tàu thứ ba trong lớp Iowa, nhưng là chiếc thứ tư và là chiếc cuối cùng thuộc lớp Iowa được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Hoa Kỳ.[1] Vào lúc chiếc Missouri được đưa vào hoạt động, hai chiếc thiết giáp hạm khác thuộc lớp Iowa là chiếc USS Illinois và chiếc USS Kentucky còn đang được chế tạo, và Hải quân Hoa Kỳ đang có kế hoạch cho những chiếc thiết giáp hạm khác thuộc lớp Montana; tuy nhiên, Illinois và Kentucky bị ngưng lại trước khi việc chế tạo chúng hoàn thành, còn những chiếc Montana bị tạm ngưng và cuối cùng bị hủy bỏ trước khi có bất kỳ lườn tàu nào được đặt. Trên thế giới, có thêm hai thiết giáp hạm nữa ra đời sau chiếc Missouri: chiếc thiết giáp hạm Anh Quốc HMS Vanguard, chiếc thiết giáp hạm cuối cùng được Hải quân Hoàng gia Anh chế tạo; và chiếc thiết giáp hạm Pháp Jean Bart. Con tàu được đỡ đầu lúc hạ thủy bởi Mary Margaret Truman, con gái của Harry S. Truman, lúc đó còn là một Thượng nghị sĩ của tiểu bang Missouri.[2]

Dàn pháo chính của Missouri bao gồm chín khẩu pháo 406 mm (16 in) 50 cal. Mark 7 có khả năng bắn đạn xuyên thép nặng 1.200 kg (2.700 lb) đi xa được khoảng 32 km (20 dặm). Pháo hạng hai bao gồm hai mươi khẩu pháo 5 inch (127 mm)/38 caliber bố trí trong các tháp súng đôi, có tầm bắn khoảng 14,5 km (9 dặm). Với sự ra đời của không lực, và yêu cầu chiếm lấy và duy trì ưu thế trên không đòi hỏi phải bảo vệ hạm đội các tàu sân bay Đồng Minh đang ngày càng lớn mạnh, Missouri được trang bị một loạt các pháo phòng không Bofors 40 mm 56 cal. và Oerlikon 20 mm 70 cal. để bảo vệ các tàu sân bay khỏi bị máy bay đối phương không kích. Khi Missouri tái hoạt động và được hiện đại hóa vào năm 1984, các khẩu pháo phòng không 20 mm và 40 mm của nó được tháo dỡ, và được thay thế bằng hệ thống vũ khí Phalanx CIWS nhằm bảo vệ chống lại tên lửa và máy bay đối phương, và các bệ phóng tên lửa bọc thép và bệ phóng tên lửa bốn nòng được thiết kế lần lượt để phóng tên lửa Tomahawk và Harpoon.[3]

Missouri là chiếc thiết giáp hạm Hoa Kỳ cuối cùng được hoàn tất.[1][4] Chiếc thiết giáp hạm USS Wisconsin (BB-64), thiết giáp hạm có số hiệu cao nhất được chế tạo, lại được hoàn tất trước chiếc Missouri; còn những chiếc mang số hiệu BB-65 đến BB-71 đã được đặt hàng nhưng bị hủy bỏ.

44547
Phong bỳ có con dấu Missouri

open
02-06-2009, 12:04
Chạy thử máy

Sau các chuyến đi thử máy ngoài khơi New York và thực hành tác chiến tại vịnh Chesapeake, Missouri rời Norfolk, Virginia ngày 11 tháng 11 năm 1944, đi qua kênh đào Panama ngày 18 tháng 11 và hướng đến San Francisco để được trang bị lần cuối cùng như một kỳ hạm của hạm đội. Nó rời vịnh San Francisco ngày 14 tháng 12 và đi đến Trân Châu Cảng, Hawaii vào ngày 24 tháng 12 năm 1944.

http://upnhanh.sieuthinhanh.com/userimages/images/sieuthiNHANH2009060215223ytvhmmq1od70873.jpeg

Lực lượng Đặc nhiệm TF 58, Đô đốc Mitscher

Chiếc thiết giáp hạm rời Hawaii ngày 2 tháng 1 năm 1945 và đi đến Ulithi thuộc phía Tây quần đảo Caroline vào ngày 13 tháng 1 năm 1945. Tại đây nó tạm thời được sử dụng làm soái hạm của Phó Đô đốc Marc A. Mitscher. Chiếc tàu chiến ra khơi ngày 27 tháng 1 làm nhiệm vụ bảo vệ cho Đội Đặc nhiệm của chiếc tàu sân bay Lexington trong đội hình Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 của Đô đốc Mitscher. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1945, các tàu sân bay của Đội Đặc nhiệm này đã tung ra các đợt không kích nhắm vào chính quốc Nhật Bản, đợt không kích đầu tiên kể từ cuộc ném bom huyền thoại Doolittle, vốn được tung ra từ tàu sân bay USS Hornet vào tháng 4 năm 1942.[2]

Missouri sau đó đi cùng các tàu sân bay đến Iwo Jima, nơi mà các khẩu pháo chính của nó đã hỗ trợ trực tiếp và liên tục cho cuộc đổ bộ chiếm đóng bắt đầu vào ngày 19 tháng 2. Sau khi Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 quay trở về Ulithi ngày 5 tháng 3, Missouri được bố trí cùng đội đặc nhiệm tàu sân bay Yorktown. Ngày 14 tháng 3, Missouri rời Ulithi để bảo vệ các tàu sân bay nhanh hướng đến chính quốc Nhật Bản. Trong các đợt pháo kích tấn công lên các mục tiêu dọc theo bờ biển Nội địa Nhật Bản bắt đầu vào ngày 18 tháng 3, Missouri đã bắn rơi ba máy bay Nhật.[2]

Việc pháo kích vào các sân bay và căn cứ hải quân gần biển Nôi địa và Tây Nam đảo Honshū vẫn được tiếp tục. Trong một cuộc phản kích của Nhật Bản, hai trái bom đã xuyên qua sàn chứa máy bay phía trước của chiếc tàu sân bay Franklin, làm nó chết đứng tại chỗ cách chính quốc Nhật Bản 90 km (50 dặm). Chiếc tàu tuần dương USS Pittsburgh đã kéo chiếc Franklin cho đến khi nó lấy lại được động lực và di chuyển ở vận tốc 26 km/h (14 knot). Đội đặc nhiệm tàu sân bay Missouri đã hộ tống cho việc rút lui của chiếc Franklin về phía Ulithi cho đến tận ngày 22 tháng 3, sau đó lên đường chuẩn bị cho cuộc pháo kích và ném bom lên Okinawa trước khi đổ bộ chiếm đóng.[2]

Missouri gia nhập lực lượng các thiết giáp hạm nhanh của Lực lượng Đặc nhiệm TF 58 trong việc bắn phá bờ biển Tây Nam Okinawa vào ngày 24 tháng 3 năm 1945, một hành động dự định nhằm lôi kéo lực lượng của đối phương ra khỏi các bãi biển phía Tây là nơi cuộc đổ bộ sẽ thực sự diễn ra. Missouri quay lại vai trò bảo vệ cho các tàu sân bay khi các đơn vị thủy quân lục chiến và lục quân bắt đầu cuộc đổ bộ lên Okinawa vào buổi sáng ngày 1 tháng 4. Máy bay từ các tàu sân bay đã tấn công vào một lực lượng hạm đội Nhật Bản tham gia chiến dịch Ten-Go do chiếc thiết giáp hạm Yamato khổng lồ dẫn đầu vào ngày 7 tháng 4. Yamato, chiếc thiết giáp hạm lớn nhất thế giới, đã bị đánh chìm cùng một tàu tuần dương và một tàu khu trục. Ba tàu khu trục khác của đối phương bị hư hỏng nặng và được tự đánh đắm. Bốn tàu khu trục còn lại, những chiếc duy nhất còn sống sót của hạm đội tấn công, bị hư hỏng và rút lui về Sasebo.[2]

Vào ngày 11 tháng 4, một chiếc máy bay cảm tử kamikaze bay thấp, cho dù đã bị bắn trúng, đâm vào bên hông mạn phải chiếc Missouri ngay bên dưới sàn tàu chính. Cánh phải của chiếc máy bay bị văng ra xa phía trước, gây một đám cháy xăng tại tháp súng 5 inch (127 mm) số 3. Chiếc tàu chiến chỉ bị thiệt hại qua loa, còn đám cháy cũng được dập tắt nhanh chóng.[2] Thi thể của viên phi công được tìm thấy trên sàn tàu ngay phía trước một khẩu đội pháo 40 mm. Thuyền trưởng William M. Callaghan đã quyết định rằng viên phi công Nhật trẻ tuổi đã làm tròn nghĩa vụ của anh ta bằng hết khả năng và danh dự, và anh ta xứng đáng được mai táng theo nghi thức quân đội. Không phải mọi thành viên thủy thủ đoàn đều đồng ý với quyết định đó: viên phi công là kẻ thù của họ, và đã nỗ lực để tiêu diệt họ. Tuy nhiên vào ngày hôm sau anh ta được mai táng xuống biển với đầy đủ nghi thức quân đội.[5] Vết đâm vào sườn con tàu chiến vẫn còn lại cho đến ngày hôm nay.

Vào lúc 23 giờ 05 phút ngày 17 tháng 4 năm 1945, Missouri phát hiện một tàu ngầm đối phương cách đội hình của nó 22 km (12 dặm). Báo cáo của nó đã dẫn đến một chiến dịch tìm và diệt được thực hiện bởi tàu sân bay hạng nhẹ USS Bataan cùng bốn khu trục hạm, mà sau đó đã đánh chìm được chiếc tàu ngầm Nhật I-56.[2]

Missouri được tách khỏi lực lượng đặc nhiệm tàu sân bay ngoài khơi Okinawa vào ngày 5 tháng 5 và khởi hành hướng về phía Ulithi. Trong quá trình chiến dịch Okinawa nó đã bắn rơi năm máy bay đối phương, giúp vào việc phá hủy sáu chiếc khác, và có thể đã tiêu diệt thêm một chiếc nữa. Nó đã giúp đẩy lùi 12 đợt tấn công ban ngày của máy bay đối phương và bốn đợt khác vào ban đêm nhắm vào đội đặc nhiệm của nó. Việc bắn phá bờ biển đã phá hủy nhiều trận địa pháo cùng nhiều công trình quân sự, chính quyền và công nghiệp.[2]

44548
1 chiếc ZERO sắp đăm vào MISOURI

open
02-06-2009, 12:09
Đệ Tam hạm đội, Đô đốc Halsey

Missouri về đến Ulithi ngày 9 tháng 5 năm 1945 rồi tiếp tục đi đến Apra Harbor, Guam vào ngày 18 tháng 5. Trưa hôm đó, Đô đốc William F. Halsey, Jr., tư lệnh Đệ Tam hạm đội, đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Missouri.[6] Nó rời cảng vào ngày 21 tháng 5, và đến ngày 27 tháng 5 lại tiếp tục nhiệm vụ bắn phá các vị trí của quân Nhật trên bờ tại Okinawa. Missouri giờ đây dẫn đầu Đê Tam hạm đội trong việc tấn công các sân bay và căn cứ trên đảo Kyūshū vào các ngày 2 và 3 tháng 6. Nó vượt qua được một cơn bão khốc liệt trong các ngày 5 và 6 tháng 6 vốn đã làm bung mũi tàu chiếc tàu tuần dương USS Pittsburgh. Một số cấu trúc bên trên bị vỡ, nhưng Missouri không bị thiệt hại nào đáng kể. Hạm đội của nó tiếp tục tấn công vào Kyūshū vào ngày 8 tháng 6, rồi sau đó phối hợp một đòn tấn công kết hợp mặt biển và trên không mạnh mẽ trước khi rút lui về phía Leyte. Nó về đến San Pedro, Leyte, vào ngày 13 tháng 6 năm 1945, sau gần ba tháng hoạt động liên tục hỗ trợ cho chiến dịch Okinawa.[2]

Tại đây nó chuẩn bị để dẫn đầu lực lựợng Đệ Tam hạm đội hùng mạnh đột kích thẳng vào trái tim của Nhật Bản ngay trong vùng biển nhà. Hạm đội khởi hành hướng lên phía Bắc vào ngày 8 tháng 7 để tiếp cặn hòn đảo chính của Nhật Bản, Honshū. Các cuộc không kích nhắm vào Tokyo diễn ra hoàn toàn bất ngờ vào ngày 10 tháng 7, rồi được tiếp nối bằng các cuộc tấn công mang tính chất hủy diệt hơn vào điểm nối giữa Honshū và Hokkaidō, hòn đảo lớn thứ hai trong quần đảo Nhật Bản, vào các ngày 13 và 14 tháng 7. Lần đầu tiên pháo hải quân đã phá hủy một công trình chủ yếu trong phạm vi các đảo chính quốc khi Missouri tham gia bắn phá bờ biển vào ngày 15 tháng 7 làm hư hại nặng công ty Nihon Steel và xưởng Wanishi Ironworks tại Muroran, Hokkaido.[2]

Trong các đêm 17 và 18 tháng 7, Missouri bắn phá các mục tiêu công nghiệp trên đảo Honshū. Các cuộc không kích vào biển Nội địa được tiếp tục cho đến ngày 25 tháng 7 năm 1945, và Missouri bảo vệ các tàu sân bay khi chúng tấn công thủ đô của Nhật Bản. Cho đến cuối tháng 7 Nhật Bản thực tế không còn có vùng “biển nhà” nào. Missouri dẫn đầu hạm đội kiểm soát được toàn bộ khoảng không và vùng biển dẫn đến các hòn đảo chính quốc Nhật Bản.[2]

44549

open
02-06-2009, 12:12
Ký kết văn bản đầu hàng của Nhật Bản

Việc bắn phá Hokkaidō và phía Bắc đảo Honshū được tiếp nối vào ngày 9 tháng 8 năm 1945, ngày mà quả bom nguyên tử thứ hai được ném xuống Nagasaki. Đến ngày 10 tháng 8 năm 1945, lúc 20 giờ 54 phút, thủy thủ trên chiếc Missouri đã sửng sốt trước tin tức không chính thức được loan truyền là Nhật Bản đã sẵn sàng để đầu hàng, chỉ với điều kiện là đặc quyền của Nhật Hoàng như là vị lãnh đạo tối cao không được xâm phạm. Chỉ cho đến 07 giờ 45 phút ngày 15 tháng 8, tin tức về việc Tổng thống Harry S. Truman thông báo chính thức việc Nhật Bản đã chấp nhận đầu hàng vô điều kiện.[2]

Đô đốc Sir Bruce Fraser thuộc Hải quân Hoàng gia, tư lệnh Hạm độ Anh Thái Bình Dương, lên chiếc Missouri vào ngày 16 tháng 8 để trao tặng tước hiệu Hiệp sĩ cho Đô đốc Halsey. Missouri chuyển một nhóm đổ bộ gồm 200 sĩ quan và binh sĩ sang thiết giáp hạm USS Iowa làm nhiệm vụ tạm thời với lực lượng chiếm đóng ban đầu tại Tokyo vào ngày 21 tháng 8. Bản thân chiếc Missouri tiến vào vịnh Tokyo vào sáng sớm ngày 29 tháng 8 để chuẩn bị cho buổi lễ ký kết chính thức Văn kiện đầu hàng của Nhật Bản.[2]

Các vị chỉ huy quân sự cao cấp thuộc các nước trong khối Đồng Minh được tiếp đón lên tàu trong ngày 2 tháng 9 để tham dự buổi lễ. Các vị khách bao gồm tướng Trung Quốc Hsu Yung-Ch'ang, Thủy sư Đô đốc Anh Quốc Sir Bruce Fraser, Trung tướng Liên Xô Kuzma Nikolaevich Derevyanko, tướng Australia Sir Thomas Blamey, Đại tá Canada Lawrence Moore Cosgrave, Đại tướng Pháp Philippe Leclerc de Hautecloque, Phó Đô đốc Hà Lan Conrad Emil Lambert Helfrich và Phó Thống chế Không quân New Zealand Leonard M. Isitt.

Thủy sư Đô đốc Chester Nimitz lên tàu một chốc sau 08 giờ 00, và Thống tướng Douglas MacArthur, Tổng Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Đồng Minh, lên tàu lúc 08 giờ 43 phút. Đại diện của phía Nhật Bản do Ngoại trưởng Mamoru Shigemitsu dẫn đầu lên tàu lúc 08 giờ 56 phút. Đến 09 giờ 02 phút, tướng MacArthur bước đến một rừng các micrô để mở đầu buổi lễ ký kết đầu hàng kéo dài 23 phút được cả thế giới mong đợi bằng những lời sau:[2] "Mong muốn tha thiết của tôi, mà thực ra là hy vọng của toàn thể nhân loại, là từ cánh đổ máu và tàn sát của quá khứ, một thế giới được thiết lập dựa trên lòng tin và sự hiểu biết, một thế giới dành cho phẩm giá của con người và đáp ứng nguyện vọng được ấp ủ nhất cho tự do, khoan dung và công bằng". [7]

Trong suốt buổi lễ, sàn tàu chiếc Missouri được trang hoàng chỉ với hai lá cờ Hoa Kỳ. Một chiếc đã được treo trên kỳ hạm của Thiếu tướng Hải quân Matthew Perry vào những năm 1853 – 1854 khi hạm đội của ông tiến vào vịnh Tokyo nhằm thúc ép Nhật Bản mở cửa các cảng biển để trao đổi thương mại với thế giới. Lá cờ này thực ra đã được treo lộn ngược, với các ngôi sao bên góc phải bên trên, vì lá cờ lịch sử này đang trong tình trạng rất mong manh đến nỗi các nhà bảo tồn tại Bảo tàng Học viện Hải quân chỉ định rằng phải có một tấm bìa bảo vệ được khâu vào phía sau nó, khiến cho nó chỉ có thể trưng bày ở "mặt trái"; và đó là cách mà lá cờ 31 ngôi sao của Perry được trình bày trong dịp đặc biệt này.[8] Lá cờ Mỹ kia đến từ chiếc thiết giáp hạm khi nó buông neo trong vịnh Tokyo Bay; và nó chỉ là "...một lá cờ bình thường của binh lính Mỹ."[9]

Đến 09 giờ 30 phút, phái đoàn Nhật Bản rời tàu. Trưa ngày 5 tháng 9, Đô đốc Halsey chuyển cờ hiệu của mình sang thiết giáp hạm USS South Dakota, và sáng sớm ngày hôm sau Missouri rời vịnh Tokyo. Như là một phần của chiến dịch Magic Carpet (Chiếc Thảm Thần), nó nhận lên tàu những hành khách quay trở về nhà tại Guam, rồi đi mà không cần hộ tống đến Hawaii. Nó đến Trân Châu Cảng vào ngày 20 tháng 9 và treo cờ hiệu của Đô đốc Admiral Nimitz vào buổi xế trưa ngày 28 tháng 9 trong một buổi tiếp đón.[2]

44550
Sĩ quan và thủy thủ Đồng Minh quan sát Thống tướng Douglas MacArthur ký các văn kiện trong buổi lễ ký kết văn bản Nhật Bản đầu hàng trên chiếc Missouri vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Việc Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh vô điều kiện đã chính thức kết thúc Thế chiến thứ hai.

open
02-06-2009, 12:17
Sau Thế chiến thứ hai

Ngày hôm sau, Missouri rời Trân Châu Cảng hướng về phía bờ Đông Hoa Kỳ. Nó về đến New York vào ngày 23 tháng 10 năm 1945 và treo cờ hiệu của tư lệnh Hạm đội Đại Tây Dương là Đô đốc Jonas Ingram. Bốn ngày sau, Missouri bắn 21 loạt đại bác chào mừng khi Tổng thống Truman lên tàu nhân dịp các nghi lễ trong Ngày Hải quân.[2]

Sau khi được sửa chữa đại tu tại xưởng hải quân New York và một chuyến đi huấn luyện đến Cuba, Missouri quay về New York. Trưa ngày 21 tháng 3 năm 1946, nó tiếp nhận thi hài của Đại sứ Thổ Nhĩ Kỳ tại Mỹ, ngài Münir Ertegün. Nó rời cảng ngày 22 tháng 3 để hướng đến eo biển Gibraltar, và đến ngày 5 tháng 4 nó buông neo tại eo biển Bosphorus ngoài khơi Istanbul. Nó cử hành các nghi thức danh dự, bao gồm việc bắn 19 loạt đại bác khi chuyển linh cửu vị cố Đại sứ và vào lúc cử hành lễ tang trên bờ.[2]

Missouri rời Istanbul ngày 9 tháng 4 và tiến vào vịnh Phaleron, Piraeus, Hy Lạp vào ngày hôm sau, được đón chào nhiệt liệt bởi các quan chức chính phủ Hy Lạp và các công dân chống cộng. Hy Lạp đã trở thành chiến trường của một cuộc nội chiến giữa phong trào kháng chiến cộng sản trong Thế chiến thứ hai chống lại chính phủ Hy Lạp lưu vong quay trở về sau chiến tranh. Phía Hoa Kỳ xem đây là một dịp để thử nghiệm quan trọng cho học thuyết mới về ngăn chặn đối với Liên Xô. Phía Xô Viết cũng gây áp lực về vấn đề nhượng địa tại Dodecanese phải được bao gồm trong Hiệp ước Hòa bình với Italy và quyền được đi ngang eo biển Dardanelles giữa Hắc Hải và Địa Trung Hải. Hành trình của chiếc Missouri về phía Đông Địa Trung Hải biểu tượng cho chiến lược cam kết của Hoa Kỳ đối với khu vực này. Giới truyền thông đã chỉ ra rằng nó là biểu tượng cho mối quan tâm của Mỹ muốn bảo toàn nền độc lập của cả hai quốc gia này.[2]

Missouri rời Piraeus vào ngày 26 tháng 4, ghé qua Algiers và Tangiers trước khi về đến Norfolk vào ngày 9 tháng 5. Nó khởi hành đi Culebra Island vào ngày 12 tháng 5 để gia nhập Đệ Bát hạm đội của Đô đốc Mitscher trong một cuộc tập trận có quy mô lớn tại Đại Tây Dương đầu tiên kể từ khi chiến tranh kết thúc. Chiếc thiết giáp hạm quay trở về New York vào ngày 27 tháng 5, và trải qua một năm kế tiếp hoạt động dọc theo bờ biển Đại tây Dương, kéo dài từ eo biển Davis ở phía Bắc đến tận vùng biển Caribbe ở phía Nam trong nhiều chuyến đi thực hành huấn luyện.[2] Vào ngày 13 tháng 12, trong một cuộc thực hành huấn luyện mục tiêu ở Bắc Đại tây Dương, một quả đạn sáng đã vô tình trúng phải chiếc thiết giáp hạm nhưng may thay không gây ra thương vong nào.[10]

44551

Missouri đi ngang qua kênh đào Panama trên đường quay về Hoa Kỳ vào tháng 10 năm 1945.

Missouri đến Rio de Janeiro vào ngày 30 tháng 8 năm 1947 để tham dự Hội nghị Liên Mỹ về Giữ gìn Hòa bình và An ninh Tây bán cầu. Tổng thống Truman lên tàu vào ngày 2 tháng 9 trong buổi lễ chào mừng việc ký kết Hiệp ước Rio, vốn mở rộng Học thuyết Monroe bằng cách ước định rằng bất kỳ một sự tấn công lên một quốc gia Châu Mỹ tham gia hiệp ước đề được xem như là sự tấn công vào tất cả các nước trong khối.[2]

Gia đình Truman lên chiếc Missouri vào ngày 7 tháng 9 năm 1947 để quay về Hoa Kỳ, và họ xuống tàu tại Norfolk vào ngày 19 tháng 9. Việc sửa chữa đại tu con tàu tại New York kéo dài từ ngày 23 tháng 9 năm 1947 đến ngày 10 tháng 3 năm 1948, sau đó được tiếp nối bằng việc huấn luyện ôn tập tại vịnh Guantanamo. Mùa hè năm 1948 được dành cho việc huấn luyện học viên mới và các chuyến đi huấn luyện dự bị. Chiếc thiết giáp hạm rời Norfolk vào ngày 1 tháng 11 để thực hiện chuyến đi huấn luyện thứ hai kéo dài ba tuần ở vùng khí hậu lạnh của biển Bắc Cực ngang qua eo biển Davis. Trong hai năm sau đó, Missouri tham gia các uộc tập trận chỉ huy tại Đại Tây Dương trải dài từ bờ biển New England đến vùng biển Caribbe, xen kẻ với hai khóa huấn luyện học viên mới vào mùa Hè. Nó được cho sửa chữa đại tu tại xưởng hải quân Norfolk từ ngày 23 tháng 9 năm 1949 đến ngày 17 tháng 1 năm 1950.[2]

Trong suốt nữa sau của những năm 1940, nhiều binh chủng phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ được lệnh phải giảm bớt trang bị so với mức độ trong Thế chiến thứ hai. Trong Hải quân, điều này đã làm cho nhiều tàu chiến thuộc nhiều loại khác nhau được cho ngừng hoạt động và được bán để tháo dỡ hoặc được đưa về một trong nhiều hạm đội dự bị đặt rải rác khắp bờ Đông và bờ Tây Hoa Kỳ. Như là một phần của việc giải trừ này, ba chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp Iowa đã được cho bất hoạt và ngừng hoạt động; tuy nhiên, Tổng thống Truman đã từ chối việc cho ngừng hoạt động chiếc Missouri. Chống lại đề nghị của Bộ trưởng Quốc phòng Louis Johnson, Bộ trưởng Hải quân John L. Sullivan v̀a Trưởng phòng Tác chiến Hải quân Louis E. Denfeld, Truman đã yêu cầu duy trì chiếc Missouri trong hạm đội hoạt động, một phần vì sự ưa thích của cá nhân ông, và cũng một phần vì con tàu đã được hạ thủy bởi con gái của ông Margaret Truman.[11][12]

Là chiếc thiết giáp hạm duy nhất hoạt động vào lúc đó, Missouri khởi hành từ Hampton Roads tiến hành một chuyến đi huấn luyện vào sáng sớm ngày 17 tháng 1 năm 1950 khi nó bị mắc cạn cách Thimble Shoals Light gần Old Point Comfort 3 km (1,6 dặm). Nó đi vào một một khoảng nước nông cách luồng chính khoảng ba lần chiều dài thân tàu. Bị nhấc lên khoảng 2 m (7 ft) trên mực ngấn nước, nó bị mắc cạn sâu và nhanh.[2] Đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh là Liên Xô đăng một bài tường thuật sự kiện này trên tạp chí hải quân của họ Hạm đội Đỏ nhằm chế diễu việc mắc cạn của chiếc thiết giáp hạm.[10] Với sự giúp đỡ của các tàu kéo, phao nổi, và một đợt thủy triều, nó nổi trở lại vào ngày 1 tháng 2 năm 1950 và được sửa chữa.[2]

44552
Missouri bị tai nạn mắc cạn vào sáng sớm ngày 17 tháng 1 năm 1950.

còn tiếp ....

MHBP
07-04-2011, 08:17
cám ơn bác đã cho biết thông tin, em đang làm con Misouri BB 63, mô hình tỳ lệ 1/350 của hãng Tamiya http://www.eduard.cz/products/card.php?id_product=5477&name=&catalogue_nb=&type=1&pgroup=3&scale=&product_month=&product_year=&page_start=75&Eduard_Session=fa4ebf2ec73c2b2d38ba3619100b2bad