PDA

View Full Version : Serbia - Srbija (Nam Tư cũ)/2008


Nguoitimduong
01-11-2008, 11:49
Serbia, tên chính thức là Cộng hòa Serbia (tiếng Serbia: Република Србија hoặc Republika Srbija) là một quốc gia không giáp biển thuộc khu vực đông nam châu Âu. Serbia nằm trên phần phía nam của đồng bằng Pannonia và phần trung tâm của bán đảo Balkan. Địa hình hía bắc nước này chủ yếu là đồng bằng còn phía nam lại nhiều đồi núi. Serbia giáp với Hungary về phía bắc; Romania và Bulgaria về phía đông; Albania và Cộng hòa Macedonia về phía nam; và cuối cùng giáp với Montenegro, Croatia và Bosnia và Herzegovina về phía tây. Tính đến tháng 7 năm 2007, dân số của nước này là 10.150.265 người .

20904


Serbia từng là một quốc gia có nền văn hóa phát triển cao vào thời kỳ trung cổ trước khi trở thành thuộc địa của Đế chế Ottoman. Năm 1878, Serbia chính thức giành lại được nền độc lập cho dân tộc. Đường biên giới hiện nay của Serbia được hình thành sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc và nước này trở thành một bộ phận của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Nam Tư, một quốc gia xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là đồng minh của Liên Xô. Khi Liên bang Nam Tư giải thể vào thập niên 1990, chỉ còn lại Montenegro ở lại với Serbia trong liên bang Serbia và Montenegro. Năm 2006, Montenegro tách khỏi liên bang và Serbia trở thành một quốc gia độc lập. Hiện nay vấn đề vùng lành thổ Kosovo tách khỏi Serbia để thành lập một quốc gia độc lập vẫn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi trên thế giới.


20905

20906

Nguoitimduong
01-11-2008, 12:03
Kỷ niệm 100 năm phát hiện hệ thống hang động ở Vinca


Đây là 1 trong những phát hiện quan trọng nhất của thời kỳ tiền sử ở châu Âu.
Văn hóa Vinca: văn hoá đá mới trung kì và hậu kì ở phía bắc bán đảo Bankăng, lấy tên từ di chỉ Vincha (Vinča) ở Nam Beograd, Nam Tư. Tầng văn hoá của di chỉ này dày hơn 8 m, chứa nhiều loại văn hoá khác nhau. Lớp A ở sâu nhất thuộc văn hoá Xtachêvô - Kơrơt (Starčevo - Kưrưs). Lớp B đến lớp D ở trên, dày hơn 5 m, chứa các giai đoạn khác nhau của VHV. Từ lớp E trở lên, thuộc các văn hoá thời đại kim khí. Đặc điểm tiêu biểu của VHV là những bình gốm đen bóng vẽ màu trắng, những tượng người bằng đất nung có đầu dẹt. Văn hóa Vinca có niên đại vào nửa đầu của thiên niên kỉ 4 TCN.

20908


20907



20909

Thông tin chi tiết :


Thiết kế :Nadežda Skočajić
Ngày phát hành:28-01-2008
Tờ tem: 25/
Vật phẩm :1 FDC
Giá mặt (Euro): 1

Nguoitimduong
05-11-2008, 10:18
100 năm thành lập LIÊN ĐOÀN BƠI LỘI THẾ GIỚI FINA ( 1908 - 2008 )


Cách đây 100 năm , vào ngày 19 tháng 7 năm 1908, khi TVH đang diễn ra tại London, FINA cũng chính thức được ra đời. 8 thành viên đầu tiên : Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Anh, Hungary và Thụy Điển. Đến năm 1973, FINA đã tổ chức giải bơi lội thế giới lần đầu tiên. Số thành viên hiện tại (đến 2008) của FINA là 198 quốc gia và vùng lãnh thổ.

21133

21134

21135

Thông tin kỹ thuật :




Thiết kế :Nadežda Skočajić
Ngày phát hành: 18-02-2008
Số mẫu: 1
Tờ tem: 8+1
Số FDC :1

kuro_shiro
08-11-2008, 18:48
12 năm của xe hoả tốc phương Đông


Xe hoả tốc phương Đông, con tàu khách hiếm có nối từ phía Tây sang phía Đông Châu Âu, đã chạy lần đầu tiên vào ngày 4 tháng 10 năm 1883, người đã phát minh ra nó là Georges Nagel Mackess. Chạy trên tuyến đường sắt Châu Âu, cái hiếm có đầu tiên là toà xe lửa có phòng ngủ và có nhà hàng trên xe. Đó là thời gian khi tình hình chính trị và mối quan hệ kinh tế , sự phát triển của thương mại và bắt đầu của những chuyến du lịch hiện đại đưa đến kết quả là sự tăng lên rất nhiều của số lượng hành khách.

21343



Chiến tranh thế giới lần thứ hai và sự thay đổi tình hình chính trị chịu ảnh hưởng quan trọng của những con tàu nổi tiếng .
Những đoạn đường sắt nguy hiểm và những vấn đề khác về mối quan hệ giữa học sinh nội trú với hàng rào sắt làm cho cuộc hành trình có những khó khăn đáng ngờ của xe hoả tốc phương Đông. Ngay lập tức máy bay đã chiếm giữ ngôi đầu và tiếp quản những hàng khách , Con tàu Châu Âu hiếm có nhất đã trở thành một con tàu hoả tốc tầm thường.

21344


Tồn tại nhiều thế kỉ, con đường hiếm co’ nhất của hai thế giới, xe hoả tốc phương Đông đã trở thành biểu tượng của lối sống . Bằng cách sử dụng nó , những người thống trị , những chính khách, những người đàn ông giàu có , những nghệ sĩ , những người phiêu lưu và những tên gián điệp đã thổi phồng danh tiếng của nó . Sống mãi trong một vài tác phẩm văn chương và những bộ phim, tàu hoả tốc phương Đông cũng nổi tiếng với thế hệ trẻ ……..

hat_de
09-11-2008, 11:18
12 năm của xe hoả tốc phương Đông


Giúp si-ro thuyết minh nào :D

Xe hoả tốc phương Đông, con tàu khách hiếm có nối từ phía Tây sang phía Đông Châu Âu, đã chạy lần đầu tiên vào ngày 4 tháng 10 năm 1883, người đã phát minh ra nó là Georges Nagel mackess. Chạy trên tuyến đường sắt Châu Âu, cái hiếm có đầu tiên là toà xe lửa có phòng ngủ và có nhà hàng trên xe. Đó là thời gian khi tình hình chính trị và mối quan hệ kinh tế , sự phát triển của thương mại và bắt đầu của những chuyến du lịch hiện đậi đưa đến kết quả là
sự tăng lên rất nhiều của số lượng hành khách.
Chiến tranh thế giới lần thứ hai và sự thay đổi, tinh` hình chính trị cái mà chịu ảnh hưởng quan trọng của những con tàu nổi tiếng .
Những đoạn đường sắt nguy hiểm và những vấn đề khác về mối quan hệ giữa học sinh nội trú với ha`ng rào sắt làm cho cuộc hành trình có những khó khăn đáng ngờ của xe hoả tốc phương Đông. Ngay lập tức máy bay đã chiếm giữ ngôi đầu và tiếp quản những hàng khách , Con tàu Châu Âu hiếm có nhất đã trở thành một con tàu hoả tốc tầm thường.
Tồn tại nhiều thế kỉ, con đường hiếm co’ nhất của hai thế giới, xe hoả tốc phương Đông đã trở thành biểu tượng của lối sống . Bằng cách sử dụng nó , những người thống trị , những chính khách, những người đàn ông giàu có , những nghệ sĩ , những người phưu lưu và những tên gián điệp đã thổi phồng danh tiếng của nó . Sống mãi trong một vài tác phẩm văn chương và những bộ phim, tàu hoả tốc phương Đông cũng nổi tiếng với thế hệ trẻ …….

kuro_shiro
10-11-2008, 19:32
Olympic lần thứ 29 - Bắc Kinh 2008


Olympic lần thứ 29 được tổ chức vào ngày 8 đến 24 tháng 8. Trong số những vận động viên thể thao đế từ 207 quốc gia trên thế giới , những người đã được chứng thực việc tham gia của họ trong những trận đấu năm, cũng có những vận động viên người Serbia, đã ghi được tên ít nhất hai lần trong lịch sử Olympic .

21418

21419


Từ buổi đầu ở Stockholm, năm 1912, những người đại diện cho Nam Tư vẫn tiếp tục tham gia những trận đấu , nhưng năm 2008 ở Bắc Kinh , sau đúng 96 năm, họ sẽ đấu tranh trở lại dưới lá cờ Serbia.
Những sự kiện quan trọng sẽ vẫn được ghi chép trong lịch sử Olympic hiện đại. Năm 2001, uỷ ban Olympic thế giới chọn thủ đô của Trung Quốc để làm làm thành phố tổ chức Olympic lần thứ 29 và tin rằng sau đó những người tổ chức sẽ giới thiệu một nền văn minh độc đáo và được ngưỡng mộ trong suốt 400 năm qua .

21420


Thông tin của IOC và nhất là uỷ ban Olympic có thể là tượng trưng được miêu tả với phương châm nổi tiếng “ nhanh hơn… cao hơn… mạnh hơn “ . Năm nay uỷ ban Olympic Serbia gửi tới Stockholm một phái đoàn , hai nước sẽ là bạn của nhau và là đối tác tin cậy .Ở Bắc Kinh có tổng số 150 thành viên. Những vận động viên , người mà biết kết quả đạt đựơc bằng cách chơi đẹp và tôn trọng đối phương , người mà tin vào ý tưởng của Olympic và ước mơ Olympic .



21421



Thông tin kĩ thuật :




Tác giả : M. A. Marina Kalezic’
Phát hành: 7-3-2008
Tờ: 8+1
Số tem : 2
FDC : 1
Cộng tác chuyên môn : uỷ ban Olympic Serbia, Belgrade.
Thực hiện nghệ thuật tem : M. A. Marina Kalezic’

xihuan
16-12-2008, 15:31
Lễ phục sinh

Lễ Phục Sinh thường được xem là một trong những ngày lễ quan trọng nhất trong năm của người theo Kitô giáo thường diễn ra vào tháng 3 hoặc 4 mỗi năm để tưởng niệm sự kiện Phục Sinh của Chúa Giêsu từ cõi chết sau khi bị đóng đinh trên thập tự giá, được người Kitô tin là xảy ra vào khoảng thời gian này trong năm 30 – 33 CN.

23493

Trong Kitô giáo Tây phương, ngày lễ Phục Sinh tất cả rơi vào một chủ nhật giữa 22 tháng 3 và 25 tháng 4. Ngày kế tiếp, Thứ Hai Phục Sinh, được công nhận là ngày nghỉ lễ chính thức của hầu hết các quốc gia có truyền thống Kitô giáo, nhưng không được quy định tại Hoa Kì, ngoại trừ trước kia ở một số tiểu bang, tất cả đã được bãi bỏ từ thập niên 1980.
Lễ Phục Sinh và các ngày nghỉ liên hệ tới nó là những ngày lễ di động, tức chúng không rơi vào một ngày cố định trong lịch Gregorian hay lịch Julian (là những lịch dựa theo sự vận hành của mặt trời và mùa). Thay vào đó nó dựa trên lịch mặt trăng tương tự – nhưng không giống hệt – lịch Do Thái. Ngày chính xác của lễ Phục Sinh thường vẫn còn là đề tài tranh luận.

Theo Kinh thánh, Giê-su cùng các môn đồ lên thành Jerusalem vào dịp Lễ Vượt Qua (Passover), ngài vào Đền thờ, đánh đuổi những người buôn bán, những kẻ đổi tiền và lật đổ bàn của họ và quở trách họ. Sau đó, Giê-su bị bắt giữ theo lệnh của Toà Công luận (Sanhedrin) và Thượng Tế Joseph Caiaphas. Trong bóng đêm của khu rừng Gethsemane, ngoại ô Jerusalem, lính La Mã nhận diện Giê-su nhờ cái hôn của Judas Iscariot, một môn đồ đã phản ngài.
Tòa Công luận cáo buộc Giê-su tội phạm thượng và giao ngài cho các quan chức Đế quốc La Mã để xin y án tử hình – không phải vì tội phạm thượng, nhưng vì cáo buộc xúi giục nổi loạn. Dưới áp lực của giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, Tổng đốc Pontius Pilate miễn cưỡng ra lệnh đóng đinh Giê-su.
Sau khi Giê-su chết, Joseph người Arimathea đến gặp Pilate và xin được phép chôn ngài với sự chứng kiến của Mary Magdalene và những phụ nữ khác.
Không ai chứng kiến được sự phục sinh của Giê-su, song một vài phụ nữ khi đến thăm mộ với thuốc thơm để xức xác ngài (theo tục lệ thời ấy) thì chỉ thấy ngôi mộ trống mà trước đó họ đã an táng ngài trong đó. Theo Tân Ước, một thiên sứ đang đợi tại ngôi mộ để báo cho họ biết là Chúa Giê-su đã sống lại. Phúc Âm Mark (Macô hoặc Mác) thuật lại Mary Magdalene sau đó đã gặp ngài. Phúc Âm Giăng không nhắc đến thiên sứ nhưng thuật rằng khi Mary Magdalene đến bên ngôi mộ trống, Chúa Giê-su đã hiện ra cùng bà. Các sách Phúc Âm và Công vụ đều ghi nhận rằng ngài gặp gỡ nhiều người tại các nơi chốn khác nhau trong suốt bốn mươi ngày trước khi thăng thiên.

Hơn 3 tỷ Tín hữu Cơ Đốc ở khắp nơi trên trái đất tin rằng Chúa Giê-su sống lại ba ngày sau khi chết trên thập tự giá. Sự kiện này được đề cập đến theo thuật ngữ Cơ Đốc là sự Phục sinh của Chúa Giê-su, được cử hành hằng năm vào ngày Lễ Phục sinh (Easter).

23494 23495

23496

Thông tin bộ tem:

- Giá mặt 20 din - Trứng phục sinh với hình ảnh của Chúa Jesu, một chi tiết bức tranh treo tường của Vua Milutin (được dệt từ thế kỷ XIII-XIV)
- Giá mặt 46 din - Trứng phục sinh với hình tượng của Chúa Jesu ở thế kỷ XV
- Nguồn tài liệu: bộ sưu tập của Bảo tàng Giáo hội chính thống người Séc-bi, Belgrade.
- Hoạ sĩ thực hiện: Jaksa Vlahović, họa sĩ đồ họa từ Belgrade.
- Ngày phát hành: 21-03-2008
- Số mẫu: 2
- Tờ tem: 25
- FDC: 1

xihuan
17-12-2008, 14:10
Đội tuyển tennis tham dự olympic của Serbia

Ngày 04/04/2008 Serbi đã phát hành bộ tem về đội tuyển tennis tham dự olympic. Đây là bộ tem mà những nhà sưu tập tem về thể thao đặc biệt là môn quần vợt không thể bỏ qua.
Bộ tem gồm 5 mẫu in hình các vận động viên:

Ana Ivanović

23563

Sinh ngày 6 tháng 11 năm 1987 tại Belgrade là một vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của Serbia. Hiện theo bảng xếp hạng mới nhất của WTA tính đến 10 tháng 11 năm 2008 Ana Ivanović xếp hạng 5 thế giới.
Tại giải Pháp mở rộng 2007, Ivanović lần đầu tiên giành quyền chơi một trận chung kết đơn Grand Slam, cô thua Justine Henin. Cũng trong năm 2007, cô còn vào tới bán kết của các giải Wimbledon và Women's Tennis Association Tour Championships. Lần thứ hai Ana tham dự một trận chung kết Grand Slam là tại giải Úc mở rộng 2008, lần này, người vượt qua cô để giành ngôi quán quân là Maria Sharapova.
Năm 2008 cô trở thành người phụ nữ Serbia đầu tiên và là người Nam Tư thứ 3 giành được danh hiệu Grand Slam ở nội dung đơn nữ (sau Mima Jaušovec và Seleš) khi cô giành được chức vô địch Pháp mở rộng vào ngày 8-6-2008. Trong trận chung kết đó cô đã đánh bại Dinara Safina với tỉ số 2-0 (6-4, 6-3). Ngay sau khi giành được chức vô địch ở Pháp mở rộng, và việc Maria Sharapova thất bại ở giải này cô đã lần đầu tiên vươn lên ngôi số 1 thế giới trong bảng xếp hang WTA.
Vào tháng 9 năm 2007, Ana trở thành đại sứ cho tổ chức UNICEF.
23556
Thành tích tốt nhất tại các giải Grand Slam:
- Úc Mở rộng: Chung kết (2008)
- Pháp Mở rộng: Vô địch (2008)
- Wimbledon: Bán kết (2007)
- Mỹ Mở rộng: Vòng 4 (2007)

Jelena Janković

23562

Sinh 28 tháng 2 năm 1985, chị hiện là tay vợt nữ số 1 thế giới theo bảng xếp hạng của WTA.
Janković bắt đầu học quần vợt tại Câu lạc bộ quần vợt Sao Đỏ. Khi mới 9 tuổi rưỡi chị đã làm quen với quần vợt nhờ anh trai và cũng là huấn luyện viên thể lực Marko. Sau đó chị được tham gia Học viện quần vợt của Nick Bollettieri. Janković giành chức vô địch giải trẻ Úc Mở rộng 2001. Từ 2001, chị bắt đầu tham gia thi đấu ở các giải WTA; vào vòng hai ở ngay giải đấu đầu tiên Indian Wells Masters.
Janković từng vào đến bán kết các giải Grand Slam Úc Mở rộng, Pháp Mở rộng và Mỹ Mở rộng. Chị là một trong số ít các tay vợt nữ lên ngôi số 1 thế giới khi chưa có một danh hiệu Grand Slam đơn nào (như Kim Clijsters và Amélie Mauresmo). Năm 2007, chị giành được danh hiệu vô địch Wimbledon ở nội dung đôi nam nữ cùng đồng đội người Anh Jamie Murray.
Jelena Janković là đại sứ cho tổ chức UNICEF.
23558
Thành tích tốt nhất tại các giải Grand Slam
- Úc Mở rộng: Bán kết (2008)
- Pháp Mở rộng: Bán kết (2007, 2008)
- Wimbledon: Vòng 4 (2006, 2007, 2008)
- Mỹ Mở rộng: Bán kết (2006)

Novak Đoković

23565

Sinh ngày 22 tháng 5 năm 1987 tại Belgrade, là tay vợt đang lên ở tuổi 20, Djokovic đã chứng minh mình là tay vợt có thể thích nghi trên mọi mặt sân với tài năng tiềm tàng. Anh tham gia giải Hopman Cup với đồng đội là Ana Ivanovic. Tuy nhiên họ đã để thua trận chung kết.
Anh tiếp tục cuộc bứt phá ngoạn mục khi thăng hạng vùn vụt năm 2006.
Djokovic khởi đầu năm 2006 tại vị trí thứ 78, nhưng với những nỗ lực để vào đến tứ kết Roland Garros và vòng 4 Wimbledon, anh thấy mình được lọt vào top 40.
Chỉ 3 tuần sau Wimbledon, anh giành danh hiệu đầu tiên của mình tại Amersfoot mà không để thua một set nào. Với chiến thắng thứ 2 tại Metz, Djokovic lọt vào top 20 lần đầu tiên trong sự nghiệp. Còn với những gì anh đã thể hiện tại Indian Wells (Á Quân) và Miami (Vô Địch), 2 giải Masters của năm, anh lọt vào top 10. Trong 2 giải đấu trên, anh đều đánh bại Andy Murray, tay vợt số 1 của Anh hiện nay và cũng là bạn thân của anh, trong 2 trận bán kết mà không để thua một ván đấu nào. Anh để mất giải Indian Wells vào tay Rafael Nadal, nhưng đã trả miếng lại được bằng chiến thắng trước Nadal tại Miami, Florida. Sau đó, anh tham dự giải đấu danh giá Monte Carlo Mở Rộng và để thua David Ferrer tại vòng 3 với 3 ván trắng. Tại giải Estoril, Djokovic đánh bại tay vợt lọt vào bán kết Wimbledon 2007 người Pháp, Richard Gasquet 7-6,0-6,6-1 tại chung kết.
Anh là bạn thân thời trung học của Andy Murray, và cũng đôi khi là đồng đội đánh cặp của anh. Tại Davis Cup 4/2006 diễn ra ở Glasgow, đội Serbia và Motenegro (với sự góp mặt của Novak Djokovic) đã đánh bại đội Anh (với Andy Murray). Djokovic giành được trận thắng mang tính quyết định trước Greg Rusedski, giúp đội của anh giành phần thắng 3-1.
Tại Úc Mở Rộng, anh lọt đến vòng 4 trước khi để thua Roger Federer, nhà vô địch của giải này. Thành tích tốt nhất của Djokovic tại Grand Slam là vào đến bán kết Pháp Mở Rộng và Wimbledon, và đều để thua trước Rafael Nadal.
Tại Wimbledon, anh có chiến thắng kịch tính trước Marcos Baghdatis tại tứ kết. Trận đấu kéo dài đến 5 giờ, chỉ kém 5 phút so với trận đấu đơn dài nhất trong 1 ngày của lịch sử giải Wimbledon. Trong trận bán kết gặp Rafael Nadal, anh buộc phải bỏ cuộc sớm do chấn thương lưng và bàn chân. Những thành công của anh tại Wimbledon đồng nghĩa với việc anh trở thành tay vợt số 3 thế giới, sau Roger Federer và Rafael Nadal, vì Andy Roddick đã chỉ lọt đến tứ kết, còn Nikolay Davydenko thì dừng bước ở vòng 4.
Tháng 8 năm 2007 đánh dấu 1 bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của Novak Djokovic khi anh đánh bại Andy Roddick (số 3 khi đó), Rafael Nadal (số 2) ở bán kết rồi Roger Federer (số 1) ở chung kết để giành giải vô địch Roger Master ở Montreal, Canada. Đây là lần đầu tiên kể từ Boris Becker năm 1994 có một tay vợt đánh bại cả 3 tay vợt có thứ hạng cao nhất trong bảng xếp hạng ATP tại một giải đấu.
Hiện nay Novak Djokovic đang xếp hạng 3 thế giới. Thành tích mới nhất của anh là đoạt chức vô địch Giải quần vợt Masters Cup 2008 ở Thượng Hải (Trung Quốc) sau khi đánh bại đối thủ Nikolay Davydenko của Nga 2-0 (6-1, 7-5) trong trận chung kết hôm 16-11-2008.
23557
* Thành tích tốt nhất tại các giải Grand Slam
- Úc Mở rộng: Vô địch (2008)
- Pháp Mở rộng: Bán kết (2007,2008)
- Wimbledon: Bán kết (2007)
- Mỹ Mở rộng: Chung kết (2007)
* Huy chương Olympic
- Huy chương Đồng đơn nam tại Olympic Bắc Kinh 2008

Janko Tipsarević

23564

Sinh ngày 22/6/1984 tại Belgrade. Hiện đang xếp hạng 44 trong bảng xếp hạng của ATP (thành tích tốt nhất là xếp hạng 42 ngày 28/1/2008).
Janko Tipsarević bắt đầu chơi chuyên nghiệp vào năm 2001 và ngay sau đó anh đã giành chiến thắng tại giải Australian mở rộng.
Một kỷ lục mới đã được thiết lập khi Tipsarević tham dự giải Davis Cup. Lúc đó anh mới 15 tuổi, ra mắt công chúng lần đầu tiên vào ngày 24/5/2000 tại Maroco và trở thành tay vợt trẻ nhất tham dự giải Davis Cup. Tipsarević vượt qua vòng loại thứ 2 và lên chơi chuyên nghiệp vào năm 2001.
Từ đó đến nay, Janko Tipsarević đã chiến thắng 3 giải Future, 9 danh hiệu Challenger.
Ở giải Masters năm 2007 tại Ấn Độ, Janko Tipsarević đã đánh bại cựu vô địch thế giới, tay vợt số 1 của Australia, Layton Hewitt. Sau đó Janko đã tỏa sáng tại giải Grand Slam vào cuối năm. Tại giải Roland Garros, Janko tiếp tục đánh bại cựu vô địch thế giới người Nga Marat Safin ở vòng 3.
Vào năm 2008, tại giải Grand Slam ở Melbourne, Janko đã chơi một trận đấu kéo dài 4 giờ 30 phút với tay vợt Rodger Federer người Thụy Sĩ. Sau 5 séc đấu, mặc dù phần thắng nghiêng về vua sân cỏ nhưng khán giả vẫn ngợi khen nhiệt liệt những quả giao bóng ăn điểm trực tiếp của Janko Tipsarević.
23559


Nenad Zimonjić

23561

Sinh ngày 4/6/1976 tại Belgrade. Hiện đang xếp hạng 687 trong bảng xếp hạng của ATP (thành tích tốt nhất là xếp hạng 176 ngày 29/5/1999). Mặc dù xếp hạng không cao ở nội dung đơn nhưng Nenad Zimonjic là một chuyên gia đánh đôi. Trong bảng xếp hạng của ATP , anh đang xếp hạng 7 (thành tích tốt nhất là xếp hạng 4 ngày 5/11/2007).
Zimonjic đã giành được cả thảy 22 danh hiệu đôi trong sự nghiệp. Anh cũng từng đăng quang ở Australia Open khi đánh đôi nam-nữ với Sun Tiantian.
Năm 2008 là một năm cực kỳ thành công đối với Nenad Zimonjic. Anh đã giành được 4 danh hiệu đôi (trong đó có danh hiệu Wimbledon cao quý) khi đánh cặp cùng Daniel Nestor. Trong trận chung kết đôi, cặp Daniel Nestor (Canada) - Nenad Zimonjic (Serbia) đánh bại cặp song sinh người Mỹ Bob - Mike Bryan 2-0 (7-6, 6-2) để giành chức vô địch. Đôi Nestor - Zimonjic cũng đã kết thúc năm thi đấu 2008 với danh hiệu đôi số 1 thế giới.
23560




23566


Thông tin kĩ thuật:

- Tác giả : Marina Kalezic’
- Phát hành: 04-04-2008
- Tờ: 8+1
- Số tem: 5
- FDC: 5
- Cộng tác chuyên môn: Liên đoàn quần vợt Serbia
- Thực hiện nghệ thuật tem : M. A. Marina Kalezic’

xihuan
20-12-2008, 10:12
Động vật cần bảo vệ đặc biệt

Tiếp theo bộ tem năm 2006, ngày 07-04-2008 Serbia giới thiệu thêm một bộ tem về những loài động vật cần được bảo vệ.

Hươu (Cervus elaphus Linnaeus, 1758)

23819

Cervus elaphus Linnaeus thuộc họ Cervidae và bộ ngón chẵn Artiodactyla. Chúng phân bố trong một vùng rộng rãi của châu Âu. Chúng sống thành bầy đàn ở vùng đất thấp và vùng núi với những khu rừng thưa có nhiều đồng cỏ. Thức ăn chủ yếu của chúng là cỏ, lá cây. Trong ngày, các Cervus elaphus không hoạt động nhiều, do có sự hiện diện của con người, chúng hoạt động chủ yếu là trong buổi sáng sớm và cuối buổi chiều. Mùa sinh sản của chúng kéo dài từ cuối tháng 9 đến cuối tháng 11. Trong khoảng thời gian đó, việc đánh nhau giữa các con đực để tranh giành lãnh thổ và con cái được diễn thường xuyên. Vào tháng 5 và tháng 6, chúng thường sinh được 1 con (sinh đôi rất hiếm). Cervus elaphus có thể sống đến 25 năm, nhưng trong hầu hết các trường hợp chúng chỉ sống được 13 – 15 năm.
Theo nhận định tình trạng của các loài đặc biệt, trong danh mục những loài động vật có vú chúng được phân loại là "ít được quan tâm" (LC). Ở Serbia, trong danh mục VU, Cervus elaphus được liệt vào loài đặc biệt cần bảo vệ. Mối nguy hiểm chính do con người đem lại cho chúng là nạn săn bắn bất hợp pháp, ngoài ra, do sự lai tạp gien với loài từ các vùng khác.


Lửng Á-Âu (Meles meles Linnaeus, 1758)

23820

Lửng Meles meles Linnaeus thuộc họ Mustelidae Carnicova, bộ ăn thịt Carnivora. Lửng Meles meles sống rộng rãi ở Châu Âu. Nó thích sống ở các khu rừng quang đãng có nhiều cây bụi. Lửng có thể ăn nhiều loại thức ăn nhưng chúng thích nhất các loại trái cây (quả nhỏ, khoai tây, nấm, ngô, hạt). Chúng sống theo bầy đàn tại những hệ thống hang chằng chịt do chúng tự đào. Hầu hết chúng sinh sản từ tháng 2 đến tháng 5. Mỗi lứa đẻ từ 1 đến 5 con. Chúng có thể sống 16 năm trong tình trạng nuôi nhốt và 14 năm trong hoang dã. Ở Châu Âu, trong danh mục những loài động vật có vú chúng được phân loại là "ít được quan tâm" (LC). Ở Serbia, loài này được bảo vệ, việc săn bắn bị cấm trong khoảng thời gian từ tháng 12 đến 31/7 sang năm, ngoại trừ vùng AP Vojvodina bị cấm trong cả năm.


Mèo rừng (Felis silvestris Schreber, 1777)

23821

Thuộc họ Mèo Felidae, bộ ăn thịt Carnivora. Trong quá khứ, mèo rừng Felis silvestris Schreber sống rộng rãi ở Châu Âu, ngoại trừ vùng Fenoscandinavia. Trong suốt thế kỷ XVII và XVIII, môi trường sinh sống của chúng bị hạn chế thu hẹp và hoàn toàn biến mất trong nhiều vùng của Châu Âu. Số lượng của chúng phụ thuộc vào môi trường rừng. Mèo rừng thích sống trong các khu rừng, xa con người. Thức ăn chủ yếu của chúng là các loài gặm nhấm và chim. Chúng giao phối vào cuối mùa đông và mùa xuân, sinh sản trong tháng tư đến tháng chín. Kích thước trung bình từ 3 – 5 kg. Chúng có thể sống 15 năm trong tình trạng nuôi nhốt và 11 năm trong hoang dã.
Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, chính yếu tố săn bắn của con người đã gây cho chúng nguy hiểm và hạn chế môi trường sống. Ở Châu Âu, cũng như ở Serbia, mèo rừng Felis silvestris Schreber được phân loại trong nhóm "gần đe dọa" (NT).


Lợn rừng (Sus scrofa Linnaeus, 1758)

23822

Lợn rừng Sus scrofa Linnaeus thuộc thuộc họ lợn Suidae và bộ móng chẵn Artiodactyla. Lợn rừng sống rộng rãi trong lục địa châu Âu. Lợn rừng sống hoang dã ở các loại hình khí hậu ôn đới đặc biệt là ở các khu rừng sồi. Nó cũng có thể sống ở các đồng cỏ bằng phẳng, nhiều cây bụi và ven các nương rẫy, đặc biệt là vùng có nhiều nước. Như tất cả các loài lợn, Lợn rừng là một loài động vật ăn tạp. Thức ăn chủ yếu của nó là quả sồi, cây sồi, ngô, cỏ xanh, nấm. Lợn rừng sống đơn độc cho đến mùa sinh sản kéo dài từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Mỗi lứa đẻ từ 3 đến 10 con. Chúng có thể sống 20 năm trong tình trạng nuôi nhốt nhưng trong hoang dã chỉ được 8 – 10 năm. Ở Châu Âu, cũng như ở Serbia, Lợn rừng được phân loại trong nhóm "ít được quan tâm" (LC).


23824 23825

23823


Thông tin kĩ thuật:

- Tác giả : Marina Kalezic’
- Phát hành: 07-04-2008
- Tờ: 25
- Số tem: 4
- FDC: 2
- Cộng tác chuyên môn: ThS Milan Paunović, Bảo tàng Lịch sử tự nhiên, Belgrade.
- Thực hiện nghệ thuật tem : M. A. Marina Kalezic’

xihuan
20-12-2008, 10:33
Eurovision năm 2008


23826

Eurovision - Cuộc thi Tiếng hát truyền hình châu Âu là một trong những show truyền hình lâu đời nhất thế giới. Sự kiện này được tổ chức lần đầu tiên năm 1956, khởi đầu chỉ là một cuộc thi âm nhạc quy mô nhỏ với 7 nước tham gia tranh tài. Tính đến nay, đây không chỉ là sự kiện âm nhạc lớn nhất châu Âu, mà còn là nơi chắp cánh cho rất nhiều ca sĩ hay ban nhạc, trong đó có những cái tên đã đi vào huyền thoại như ban nhạc ABBA, ca sĩ Celine Dion hay Cliff Richard.

Khởi đầu bằng một cuộc thi âm nhạc "nho nhỏ" giữa lòng châu Âu với vỏn vẹn 7 nước tham gia tranh tài vào năm 1956, giờ đây Eurovision đã trở thành một ngày hội âm nhạc lớn nhất châu Âu, là niềm vinh dự cho đất nước nào có thí sinh đăng quang.

Eurovision năm 2008 diễn ra tại thủ đô Belgrade của Serbia. Đây là lần đầu tiên Serbia đăng cai tổ chức Eurovision, do đã giành giải nhất trong cuộc thi năm 2007 ở Helsinki (Phần Lan) với tổ khúc "Molitva" (Lời nguyện cầu) do nữ ca sĩ Maria Sherifovich trình bày bằng tiếng Serbia.
Eurovision năm 2008 đã thu hút đến 43 quốc gia tham dự. “Đây là Eurovision lớn nhất từ trước đến nay…” - John Kennedy O'Connor, một trong những người sáng lập Eurovision - vui mừng cho biết - “… Cuộc thi âm nhạc này ngày càng lớn mạnh và ngày càng thu hút sự quan tâm của thế giới”.

23828
Logo của cuộc thi

23829
Nơi diễn ra cuộc thi

Buổi chung kết Eurovision năm nay có sự tham gia của 24 thí sinh, thu hút hơn 100 triệu khán giả truyền hình trên toàn thế giới và khoảng 15.000 khán giả đến Belgrade nhân dịp này.
Với ca khúc R&B "Believe" (Tin tưởng) đầy xúc cảm sâu lắng, ca sĩ người Nga Dima Bilan giúp nước Nga lần đầu tiên đăng quang tại cuộc thi âm nhạc danh giá này.
23830
Dima Bilan giành được 272 phiếu bình chọn từ tin nhắn và điện thoại của khán giả ở 43 quốc gia có thí sinh dự thi, vượt qua hai đối thủ sát sao là thí sinh Ani Lorak đến từ Ukraine (230 phiếu bầu) và thí sinh Kalomira của Hy Lạp (218 phiếu). Đây là lần thứ hai ca sĩ 26 tuổi này tham dự Eurovision. Trong năm 2006, anh đã đoạt giải Bạc tại cuộc thi diễn ra ở Athen (Hy Lạp). Với chiến thắng này, Bilan nhận được lời chúc mừng từ tân Tổng thống Nga Dmitri A. Medvedev và Thủ tướng Putin. Trong một điện mừng gửi Bilan, Thủ tướng Putin viết: "Đây không phải là thành công dành cho cá nhân Dima Bilan, mà là chiến thắng cho cả nước Nga."

Giành giải Bạc năm nay là ca sĩ người Ukraine Ani Lorak với những bước nhảy điêu luyện, cuồng nhiệt, có thể sánh ngang với bất kỳ vũ công trứ danh nào. Cô được 230 phiếu bình chọn. Giải Đồng năm nay thuộc về ca sĩ Kalomira của Hy Lạp. Cô gái trẻ có giọng hát giống hệt "Công chúa nhạc pop" Britney Spears này giành được 218 phiếu bình chọn.

Năm 2009, cuộc thi này sẽ được tổ chức tại Nga theo quy định của Ban tổ chức như thông lệ.


23827

Thông tin kĩ thuật:


- Tác giả : Ana Kostić
- Phát hành: 11-04-2008
- Tờ: 1 bloc
- Số tem: 1
- FDC: 1

xihuan
20-12-2008, 13:22
EUROPA 2008 - Letter


23881

Đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người, chữ viết sau ngôn ngữ, có một vai trò rất to lớn. Nó thậm chí quyết định đến lịch sử văn hóa, và song song là lịch sử về đọc, viết. Chữ viết là phương tiện ghi lại thông tin, không có chữ viết thì các quyển sách, các phát minh, các thành tựu không thể truyền lại. Lịch sử của chữ viết được ghi nhận là bắt nguồn từ những người Sumérie cách đây khoảng 4000 năm trước CN.
Âm thanh hay lời nói là cái vỏ vật chất của ngôn ngữ vẫn có những hạn chế nhất định, có giới hạn, không thể truyền đạt rộng rãi và chính xác, lưu giữ lâu dài như chữ viết. Âm thanh bị hạn chế về khoảng cách và thời gian theo kiểu "tam sao thất bản". Chữ viết khắc phục được những điểm trên là phương tiện hoàn hảo để truyền đạt thông tin, lưu giữ thông tin, kích thích sự sáng tạo, là thành quả kỳ diệu, vĩ đại của loài người.

Chữ "letter" có hai nghĩa. Trong đó nó có một nghĩa là hệ thống các ký hiệu để ghi lại ngôn ngữ theo dạng văn bản, là sự miêu tả ngôn ngữ thông qua việc sử dụng các ký hiệu hay các biểu tượng được viết trên giấy hoặc các vật liệu khác. Theo "Từ điển hệ thống văn chương" "letter" "đại diện cho một hình thức giao tiếp bằng văn bản giữa các cá nhân vắng mặt, một hội thoại giữa người gửi và người nhận bị tách biệt không gian. Bức thư có chức năng đại diện cho suy nghĩ của một người, mong muốn và cảm xúc của người đó, cũng như để truyền tải thông điệp và thông tin."
"Letter" là chủ đề cho "Cuộc bầu chọn tem đẹp Europa 2008".

23879 23880

23882

Thông tin kĩ thuật :




Giá mặt 46 RSD: hình bức thư được gửi từ Ivanjica đến Užice. Đây là bức thư duy nhất được biết đến với 3 con tem 40 para cộng với 2 con tem 10 para
Giá mặt 50 RSD: hình bức thư được gửi từ Gornji Milanovac đến Kragujevac, được dán với bốn con tem sai biệt về màu sắc được phát hành từ Belgrade và Vienna.
Đây là một trong những bức thư quan trọng nhất trong lịch sử của bưu chính Serbia.
Tác giả : Nadežda Skočajić
Phát hành: 05-05-2008
Tờ: 8+1
Số tem:2
FDC: 1

xihuan
22-12-2008, 13:05
Thiên nhiên Châu Âu


Cao nguyên Vlasina

24119

Cao nguyên Vlasina nằm ở phía đông nam Serbia, trên một vùng đất cao hơn 1000 m so với mực nước biển. Trong cao nguyên Vlasina, hồ Vlasina là một trong những đầm lầy than bùn lớn nhất ở bán đảo Balkan.
Ngày nay, Vlasina, với các hồ nhân tạo, là một tài sản thiên nhiên đặc biệt của khu vực. Giá trị chính của vùng này là nguồn nước và hệ thực vật và động vật phong phú. Có khoảng 840 loài sinh vật đặc hữu và cây trồng phương bắc. Một trong số chúng là loài cây ăn thịt, cây gọng vó (tên khoa học là Drosera rotundifolia) rất quý hiếm và duy nhất chỉ có trong cao nguyên Vlasina.
Một điểm đặc biệt thu hút tại các miền đồng rừng giữa thảo nguyên chứa than bùn, có loài cây pulô (tên khoa học Betula pubescens) và cây hương thảo lá liễu (tên khoa học Salix rosmarinifolia).
Hệ động vật của Vlasina cũng rất phong phú. Ở đây có hơn 125 loài chim và 27 loài động vật có vú đặc hữu.
Mặt nước của hồ Vlasina chia cắt hai bờ, đồng cỏ và khu rừng phong là đặc điểm nổi bật để nhận biết vùng này.

Djavolja város

24120

Djavolja város (Thị trấn Devil) nằm ở trung tâm Serbia, trong phần tâm của núi Radan. Tượng đài tự nhiên này là kết quả của sự vận động địa chất diễn ra trong thời gian rất dài. Ngày nay, nó là điển hình cho hiện tượng xói mòn bề mặt địa chất tạo nên các mô đất hình chóp với khoáng andesite hình nón trên đỉnh, hiếm có và độc đáo. Hiện có hơn 200 chóp đất cao từ 2 - 15 mét và rộng từ 3 - 5 mét. Tác nhân ban đầu của hiện tượng xói mòn bề mặt địa chất là do lượng mưa làm hòa tan và trôi đi đất xốp. Sau này, việc hình thành các chóp đất diễn ra mạnh hơn và nhanh hơn. Toàn bộ phức hợp là vô cùng kỳ diệu và nó là món quà của thiên nhiên ban tặng có tầm ảnh hưởng quan trọng đến khoa học, giáo dục, văn hóa.

24121

24122


Thông tin kĩ thuật:


Tác giả :Marina Kalezić
Phát hành: 23-05-2008
Tờ: 8
Số tem: 2
FDC: 1