PDA

View Full Version : Các Chủ Đề Hàng Hải Trên Tem


hienthuong
02-11-2008, 10:44
Noah

20970 20971


Trong Kinh thánh, phần Chúa sáng tạo ra thế giới trang 6 đến trang 8 đã mô tả rất cụ thể về con tàu của Noah như sau: dài 450 feet, rộng 75 feet, cao 45 feet (theo người Do Thái thì kích thước là 300 cubit (1 cubit bằng 45.72cm), 50 cubit và 30 cubit. Con tàu được làm từ gỗ cây bách, được bôi hắc ín cả bên trong và bên ngoài, có 3 boong là boong dưới, boong giữa và boong trên, có cửa sổ ở trên nóc để thông gió và một cửa bốc dỡ hàng hoá ở thân tàu. Từ Ark - Con tàu, có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Latinh là từ "arca", nghĩa là cái hộp, chính từ này đã cho chúng ta thêm một dẫn chứng lí giải về hình dáng của nó.

2097220973

Theo như những số liệu ở trên, thì con tàu này có khoang chứa xấp xỉ 100.000 feet vuông, và có tải trọng hàng hoá lên đến 1,5 triệu cubit. Rất nhiều nhà sử học đã cố gắng xác định thời gian xảy ra trận lụt ở Noah, và kết luận là thuộc khoảng năm 2900 đến năm 5500 trước công nguyên. Bởi thế những con số trên nên được tính toán lại kĩ lưỡng.

Thông tin về thảm hoạ lụt lội và việc xây dựng con tàu không phải là thông tin độc nhất đối với bản dịch tiếng Do Thái của Kinh thánh. Câu truyện dựa phần lớn vào những truyền thuyết cổ xưa về vùng đất xung quanh sông Euphrates và sông Tigris. Người Assyry, người Babylon và người Hittles có những câu truyện của riêng họ về trận đại hồng thuỷ và những trận lụt lớn. Câu truyện nổi tiếng nhất đã được kể lại chi tiết trong thiên sử thi Gilgamesh. Người anh hùng trong trận lụt đó có tên là Utnapishtim. Cũng như Noah, chàng nhận được nhiệm vụ phải xây dựng một con tàu, và "để mang theo những hạt giống phục vụ cho cuộc sống cong người".
Cũng có một bản dịch khác được tìm thấy trong kinh của đạo Hồi. Nội dung của nó cũng gần giống như truyền thuyết của các thổ dân sống ở vùng California và Alaska đã kể về một trận lụt lớn nhấn chìm cả vùng đất. Trong truyền thuyết của người Hawaii cũng kể về 2 người sống sót trên đỉnh Mouna-Kea khi những hòn đảo bị nhấn chìm dưới biển nước.

20974

Năm 1968, Israel đã cho xuất bản một bộ 5 con tem mô tả về thảm hoạ kinh hoàng này. Con tem đầu tiên mệnh giá 0.12 mô tả cảnh Noah đốn cây và chế tạo lớp vỏ con thuyền. Nhìn vào con tem thứ 2 mệnh giá 0.15, chúng ta có thể thấy gia đình Noah cùng với từng đôi một các con thú tiến gần con thuyền. Tiếp đó, trời đổ mưa 40 ngày và 40 đêm, điều này được mô tả trên con tem thứ 3 mệnh giá 0.35, với những con sóng thần và những tia chớp giật trời. Sau 40 ngày mưa gió, Noah đã 3 lần gửi một con quạ và sau đó là một con chim bồ câu bay đi trong 7 ngày, điều này được mô tả trên con tem thứ 4 mệnh giá 0.40.

Lần thứ nhất, con chim bồ câu quay trở lại con thuyền mà mỏ không có một chút thức ăn, như vậy trái đất vẫn chìm trong biển nước. Lần thứ 2 con chim quay về với một chiếc lá oliu, và Noah biết rằng nước đã bắt đầu rút đi. Lần thứ 3 thì con chim không quay lại, và Noah đã mở khoang thuyền của mình. Con tem cuối cùng thể hiện hình ảnh chiếc cầu vồng, đó là dấu hiệu của Chúa về lới hứa với con người sau trận lụt.

20975

Khi bắt đầu trận đại lụt, Noah đã 600 tuổi. Cùng với Noah trên tàu còn có vợ, 3 con trai và những cô con dâu. Thời gian ở trên tàu kéo dài hơn 1 năm. Theo Kinh thánh thì 5 tháng cuối họ đã dời lên những dãy núi ở Ararat.

20976

Rất nhiều đoàn thám hiểm đã cố gắng tìm ra vị trí của con tàu. Những cuộc nghiên cứu, đào bới, thăm dò địa chất xuyên qua lớp địa hình rộng lớn của các dãy núi. Có một số nhà thám hiểm khẳng định đã tìm thấy nó ở cách núi Ararat khoảng 32 km, ở gần sườn của núi Judi, vị trí chính xác mà kinh Koran mô tả nó nằm ở bên sườn đất.
Ấn tượng về một con tàu có kích thước xấp xỉ như con thuyền trong câu truyện được cho là đã được tìm thấy ở đó, và cũng có khá nhiều cuộc tranh cãi về sự khám phá này. Theo sử thi Gilgamesh, người anh hùng Utnapishtim đã neo con tàu của mình ở núi Nisir, phía đông bắc Bagdad.

20977

Thật khó để tin nhưng cũng tồn tại những giả thuyết cho rằng các loài vật sống vào thời đại của Noah đều được mang theo mà chứa trong khoang của chiếc tàu. Các nhà thần học đang thống kê những cuộc tranh luận thiếu tính xác thực để bác bỏ những giả thuyết về điều này trong kinh thánh.

Vì Noah không chở theo các loài động vật biển nhưng số lượng các loài động vật có xương sống thống kê được cũng xấp xỉ 21.100 loài. Theo tính toán thì chúng sẽ chiếm khoảng 300.00 cubic. Với khoảng 1,5 triệu cubic tính tổng, còn rất nhiều chỗ trống cho các loài động vật, tính cả những phòng dự trữ. Hơn nữa có nhiều loài động vật thì ngủ hè, còn một số khác lại ngủ đông.

2097820979

Điều gì là nguyên nhân gây ra trận đại hồng thuỷ lúc đó? Kinh thánh đã kể về 40 ngày đêm mưa liên tục. Có một nghiên cứu đã thử tính toán tổng lượng hơi nước hiện có trong không khí. Giả định là tất cả chúng rơi xuống trái đất trong một trận lụt lớn, kết quả là lượng nước sẽ tăng lên chỉ khoảng 1 inch. Do vậy theo một số học giả thì có thể là do một sao chổi hoặc một thiên thạch đã rơi xuống trái đất và tạo nên một trận đại hồng thuỷ với những con sóng thần ngập tràn hành tinh. http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Co-nhieu-dai-duong-trong-long-trai-dat/40195828/188/
20980

Một giả thuyết hiện đại hơn thì cho rằng biển Địa Trung Hải, biển Marmara và biển Đen bị bao bọc bởi đất liền đồng thời. Từ kỉ Băng hà khoảng 18.000 năm trước, những dòng sông băng tan chảy đã làm cho mực nước biển Địa Trung Hải dâng cao không ngờ, làm ngập biển Marmara, sau đó là vụ nổ khổng lồ ở Bosphorus làm nước tràn vào Biển Đen. Giả định này được cho là đã xảy ra vào khoảng 7500 năm trước, và có lẽ đó cũng được đặt tên là Thời kì lụt nước.

20981

Có rất nhiều những truyền thuyết hoặc câu truyện được xây dựng từ một chi tiết có thật. Noah chắc chắn là phải có một đội quân đóng tàu hùng hậu thời cổ đại. Và trong hàng nghìn năm thì con tàu của ông ta trở thành con tàu lớn nhất mọi thời đại. Nhưng xét theo khía cạnh khác, cũng có thể là không.... http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Dai-hong-thuy-truyen-thuyet-va-khoa-hoc/11034922/188/

hienthuong
04-11-2008, 02:18
21066


Những con thuyền đầu tiên - Thuyền độc mộc

Chủ đề lần này chỉ đề cập đến những con thuyền hoặc xuồng có đặc điểm giống thuyền độc mộc được làm từ một thân cây. Các loại thuyền khác sẽ được giới thiệu vào lần sau.




21067 21068
Thuyền độc mộc được xem như là loại thuyền đầu tiên được con người chế tạo nên. Theo như học thuyết "vượt Châu Phi", thuyền độc mộc xuất hiện lần đầu tiên là vào khoảng 40.000 năm trước. Những người tiền sử đã dùng khoang của những thân gỗ trôi dạt để di chuyển dọc theo dòng nước. Sau đó, một số cây gỗ được cột với nhau tạo thành những bè lớn. Tiếp theo, những than gỗ đó được đục rỗng để tạo thành thuyền độc mộc.
Vào năm 1997, một con thuyền độc mộc 7000 năm tuổi đã được tìm thấy ở song Shannon thuộc vùng Ireland, một năm sau đó một chiếc thuyền độc mộc dáng mảnh có tuổi thọ 8000 năm đã được phát hiện ở Nigeria.



[21069 21070
Thuyền độc mộc không phải là loại thuyền của riêng một vùng nào cả, nó được chế tạo trên khắp thế giới. Thậm chí ngày nay, chúng cũng tồn tại ở những vùng nhiệt đới.
Những chiếc thuyền độc mộc của người châu Âu có độ dài là 4 đến 6 m, được làm dựa vào độ dài của thân gỗ.
Các vùng rừng mưa nhiều thì có thể có những chiếc thuyền độc mộc với chiều dài lên đến 20 hoặc 30m. Những thân gỗ này có nguồn gốc từ những cây bị nhổ bật rễ trong tự nhiên hoặc các cây bị đốn hạ do mục gốc.





.21071 Lửa cũng được sử dụng trên các thân gỗ để làm cháy bớt phần xù xì, nó được tạo ra bởi các dụng cụ đánh lửa bằng xương hoặc đá. Đất ẩm hoặc rêu được dùng để ngăn việc lửa cháy ra xung quanh nếu thành gỗ quá mỏng Thuyền độc mộc ở Bengal được đục rộng hơn bằng cách đổ nước sôi vào lớp vỏ cây và bóc tách các lớp riêng với một dụng cụ bào ngang.

21072 21073
Một chiếc thuyền độc mộc thường dễ bị lung lay hoặc lật úp. Để giữ nó ổn định, con người đã phát minh ra mái chèo, đó là một khúc gỗ khác có thể ngắn hơn và nhẹ hơn so với chiếc thuyền. Nó được buộc chặt song song với chiếc thuyền và dung bằng cách khua ngang linh hoạt, điều này giúp chiếc thuyền có thể lướt êm trên song.. Chính phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở các quần đảo thuộc Đông Nam Á và khắp vùng Thái Bình Dương.
Mái chèo được sử dụng một bên hoặc có thể cả hai bên mạn thuyền; mái chèo đòi hỏi phải được lắp phù hợp với cột và với buồm.




[21074 21075
Những chiếc sào cũng được sử dụng để di chuyển ở vùng nước nông; mái chèo cũng được dùng nếu nó thích hợp với việc ngồi hoặc hạ chân từ đầu gối xuống bên trong lòng thuyền.'




]21076 21077
Vùng Caribe, thuyền độc mộc được gọi là "canoa" hoặc "cenu", hoặc là từ "canoe" trong tiếng Anh.
Chúng ta đã từng biết đến đế chế Hispaniola đã sử dụng những chiếc thuyền 80 người chèo và dài đến 30m. Có những kích cỡ phổ biến hơn đã được thể hiện trên những con tem này. Chiếc xuồng ở bên phải là chiếc xuồng chiến lướt trên dòng nước.




21078 21079 21080
Thuyền độc mộc được sử dụng để đi lại, vận chuyển hàng hoá, đánh cá, sử dụng trong các cuộc đua và cả trong chiến tranh.
Trong chiếc tem bên trái, một con cá mập đang bị bẫy; còn chiếc tem ở giữa và bên phải mô tả một chiếc xuồng đang lướt điệu nghệ qua những con sóng.





21081 21082

Thuyền độc mộc có buồm là loại thuyền có thêm một tấm ván được gắn vào bên mạn thuyền để giữ thăng bằng tốt hơn, nó được mô tả khá kĩ lưỡng ở con tem bên phải. Chiếc thuyền độc mộc với kích thước lớn nhất được làm ở Châu Phi nơi mà có những cây gỗ cực lớn được tìm thấy. Chúng có thể dài đến 30 đến 40m và có thể chứa được đến 80 tay chèo. Sau khi chấm dứt các cuộc cướp bóc nô lệ và chiến tranh giữa các bộ lạc, những chiếc thuyền độc mộc được làm để phục vụ trong các cuộc đua.
[]Cho đến ngày nay, những chiếc thuyền rồng của Trung Quốc là những chiếc thuyền lớn nhất.





21083 21084
]Nhìn con tem bên trái chúng ta có thể thấy một chiếc thuyền độc mộc với mái chèo và cánh buồm, đó là một dạng thuyền có thể sử dụng để tiến hành những cuộc du lịch trên biển.
Những chiếc chèo vững chắc và khoẻ mạnh cho phép thiết lập những cánh buồm lớn hơn nhiều.
Con tem bên phải là hình ảnh một "camaku", một loại thuyền nhỏ với mái chèo và cánh buồm dành cho vùng nước ven biển. Phần đuôi hình cánh cung của con thuyền có hình giống như cái cột có thể xoay được, nó dùng để định hướng cho cánh buồm. Mái chèo thì luôn hướng về chiều gió.





21085 21086
Thuyền Lakatoi là một loại thuyền thủ công hạng lớn được tìm thấy ở vùng duyên hải New Guinea. Chiếc khung bên ngoài bao gồm 2, 3, hoặc 4 con thuyền nhỏ được gắn với nhau bằng một thanh ngang và được đặt ở trên bằng một tấm ván phẳng ghép bằng tre. Thường thì có những lều nhỏ phía trên sàn này, hoặc có thể là 1 hoặc 2 cột chống. Những cánh buồm hình móng vuốt chân thú thông thường được làm từ những tấm thảm dệt từ lá và cành của cây sagu. Nhưng cũng có những cánh buồm 4 mặt và có hình elip.





21087
Thuyền chiến của vùng biển Nam. Chiếc thuyền bao gồm 2 khoang rỗng được ghép với nhau bằng một tấm ván, một cây cột và một cánh buồm. Có 10 tay chèo trên thuyền. Các chiến binh được trang trí bằng các hình chiến đấu trên khuôn mặt và cơ thể họ.





21088
Thuyền lễ của người Haida là biểu trưng ở đây được triển lãm lâu đời trong bảo tàng lịch sử tự nhiên của thành phố New York. Những người Haida trên quần đảo Nữ hoàng Charlotte thuộc vùng biển phía Tây Canada đã chế tạo những chiếc thuyền dài từ 15 đến 20m, được làm từ gỗ của cây tuyết tùng. Những chiếc thuyền này có chiều rộng xấp xỉ 2m, có sức chứa khoảng 5 tấn, và có đội chèo khoảng 10 người (thường là nô lệ của bộ lạc) và người chỉ huy.
Một số con thuyền dùng để đi biển đã được ghép bằng các cây cột và cánh buồm. Phần đầu như chúng ta nhìn thấy ở đây được trang trí với các hình vẽ hoặc hình chạm khắc. Những con thuyền này được dùng trong buôn bán thương mại, chiến đấu và trong các dịp lễ kỉ niệm.
http://tim.vietbao.vn/thuy%E1%BB%81n_%C4%91%E1%BB%99c_m%E1%BB%99c/



21089 21090
Thuyền độc mộc chứa đầy tính nghệ thuật và khoa học trên thế giới. Bên trái là một hình chạm khắc của một mô hình thuyền cổ.
Còn bên phải là thiết kế của một "chiếc thuyền bay" được làm bởi Francesco Lana-Terzi, một giáo sư vật lý và toán học ở Brescia, Italy vào năm 1670. Chiếc thuyền không phải là một hình ảnh tưởng tượng thực sự nhưng đó là kết quả tính đó lại sợ hãi một sự phật lòng thtoán chi tiết của toán học dựa trên tiên đề cơ bản của Archimedes và Euclid. Không khí được hút một lần vào 4 khối cầu, chiếc thuyền trở nên nhẹ hơn và tầng khí xung quanh làm nó có khả năng bay lên. Chao ôi, chiếc thuyền bay này lại không thể chế tạo, bởi vì vị giáo sư tài giỏi sợ phiền lòng thần thánh.[/CENTER]

hienthuong
06-11-2008, 01:31
21208


Thuyền Kayak và thuyền da của người Eskimos





21209
Người Eskimos tự gọi mình là Inuits đã sinh sống được hàng nghìn năm ở phía Bắc Mỹ, Greenland và Siberia. Họ thuộc chủng Mông-gô-lô-ít, có tất cả khoảng 135,000 người và nói một thứ tiếng chung.

Qua nhiều năm, người Eskimos sử dụng 2 loại thuyền đặc biệt trong việc săn bắn và đi lại là thuyền kayak và thuyền da. Unuit(=Eskimos) dịch là các "bậc bề trên" hoặc đơn giản là" người". Cụm từ Eskimos bắt nguồn từ tiếng Ấn độ có nghĩa là "những người ăn thịt sống".






21210
Thuyền kayak của người Eskimos là loại thuyền một người được làm từ gân vỏ các loại cây, hoặc là các khúc xương được bọc bằng da của hải cẩu hoặc sư tử biển. Những chiếc xương đó được bảo vệ bởi một lớp da bên ngoài. Chiếc thuyền có một chỗ ngồi ở giữa và di chuyển được nhờ 2 mái chèo.
Các thợ săn Eskimos ngồi trong thuyền kayak, mặc bộ trang phục có mũ trùm bằng da và long. Bộ áo này vừa khít với cổ tay và khuôn mặt, do vậy nước không thể thấm vào trong.
Bằng việc đóng chiếc thuyền lại hoặc chui ra ngoài khỏi bộ áo choàng đó, chiếc thuyền được gắn kết chặt chẽ và tuyệt đối kín nước. Cả người và thuyền tạo thành một thể thống nhất với nhau.





2121121212

Qua nhiều thế kỉ, có một vài loại thuyền kayak khác nhau được sử dụng phụ thuộc vào các vùng và các mục đích khác nhau. Loại thuyền kayak ngắn và nhỏ nhất được gọi là "koryak". Nó chỉ dài 10 feet và được sử dụng cho đi săn ở vùng Kamchatka. Ở Greenland, chiều dài của thuyền kayak có thể lên đến 20 feet, chiều rộng là 1.5 feet.
Ở một số vùng thuộc đảo Aleutian và Alaska, có một số loại thuyền kayak dài hơn dành cho 2 hoặc 3 người đi. Việc chế tạo lớp vỏ và khâu vá lớp da bên ngoài thuyền do những người phụ nữ Eskimos đảm nhiệm. Da và các mũi khâu sẽ được bôi trơn bằng mỡ hải cẩu và dầu cá. Lớp da bên ngoài phải được thay định kì 2 năm một lần. Nếu chiếc thuyền kayak sử dụng thường xuyên hàng ngày thì phải thay lớp da bọc 1 năm 1 lần.





21213
Các vật dụng đặc trưng của thuyền kayak gồm 2 mái chèo, 1 cây lao móc, 1 cái xiên và 1 bộ đồ bơi bằng da. Các vật đó được cột vào thuyền bằng những sợi dây da. Bộ áo bơi da được thắt chặt đằng sau lưng người thợ săn (nó được mô tả trên con tem Greenland).
Con tem phía trên , bạn có thể thấy găng tay kayak với 2 ngón tay cái. Nếu một ngón tay bị ướt vì chèo, chiếc găng tay sẽ được đổi lại. Do đó, ngón bị ướt sẽ được phơi khô và người thợ săn vẫn có thể dùng cái còn lại để sử dụng vũ khí.





21214
Ở những vùng biển sóng lớn , một người thợ săn Eskimos luôn có nguy cơ bị lật úp thuyền.
Người Eskimos đã sáng tạo ra một thao tác đặc biệt được gọi là "cú xoay cuộn Eskimos", nó sẽ giúp họ nâng chiếc thuyền lật lên với một mái chèo đơn rất điêu luyện. Họ biết khoảng xấp xỉ 25 thao tác cuộn xoay khác nhau. Trong một số tình huống người Eskimos chủ định thực hiện động tác cuộn, ví dụ như nếu có một con sóng cao và nguy hiểm đang đâm thẳng vào chiếc thuyền. Nếu anh ta có thể lật vào đúng thời điểm thì có thể chặn được nguy cơ con sóng đó gây lật chiếc thuyền.





2121521216
Thuyền kayak được sử dụng chủ yếu để săn hải cẩu (chó biển hoặc sư tử biển), các loại chim và tuần lộc. Người thợ săn sử dụng một chiếc xiên, một cây lao móc được cột chặt với bộ da bơi. Lớp da sẽ ngăn con vật không thể lặn mất được. Nó còn được coi như dấu hiệu giúp xác định vị trí của con mồi.

Việc săn bắt hải cẩu răng quặp là nguy hiểm nhất. Loài vật này có thể chiều dài đến 15 feet, nặng gần 1 tấn và có cặp răng dài đến 2 feet. Những con hải cẩu răng quặp thường cố gắng tấn công thuyền và nó hoàn toàn có thể dễ dàng phá huỷ chiếc thuyền.
Ở Bắc Greenland, người Eskimos thường sử dụng thuyền kayak mở vì vậy họ có thể ra khỏi chiếc thuyền một cách nhanh nhất có thể. Một vài con thuyền có thể kết hợp với nhau khi săn hải cẩu răng quặp.. Trên con tem phía bên trái bạn có thể nhìn thấy một con hải cẩu bị trúng nhát xiên, còn con tem bên phải là cuộc đi săn tuần lộc.






21217 21218
Ngày nay, súng trường đã thay thế cho lao. Trong suốt quãng thời gian người Đan Mạch xâm chiếm Greenland làm thuộc địa, thuyền kayak còn được sử dụng như một phương tiện bưu chính, ví dụ như vận chuyển thư đến các vùng xa xôi.
Thuyền kayak luôn được gửi thành từng đôi một vì những lí do an toàn. Những lá thư được cất kĩ trong những chiếc túi chống thấm nước giấu sau người chèo thuyền, trông giống như bộ đồ bơi của người thợ săn vậy. Bạn có thể thấy điều này được miêu tả cụ thể ở con tem trên đầu trang này.





2121921220
Thuyền da là một loại thuyền mở được sử dụng để săn cá voi và để đi lại ( nó thậm chí còn được người Eskimos gọi là "thuyền nữ"). Nó gồm một bộ khung bằng gỗ được bọc bằng da của hải cẩu. Những chỗ khung và cột chính được buộc chặt bằng các dây chằng và các dây da.. Người ta không dùng đinh vì chúng có thể bị gỉ và làm hòng lớp da bên ngoài thuyền. Phần đuôi trên của bộ khung thuyền được buộc chặt với cây gỗ giúp giữ cho chỗ ngồi được vững chắc. Trên thuyền, các thanh kèo bên dưới được buộc cố định bằng nút hình chữ thập.

Chiều dài trung bình của một chiếc thuyền da có thể từ 22 đến 33 feet, chiều rộng khoảng 5 feet. Đôi khi thuyền da còn có một cột buồm nhỏ ở đầu với một cánh buồm hình vuông được làm từ da của tuần lộc (nhìn con tem ở trên). Thuyền da được gọi là "thuyền nữ" bởi vì sẽ là một sự xỉ nhục với người đàn ông nếu chạm vào mái chèo trên chiếc thuỳen này. Người đàn ông ngồi ở đuôi thuyền và chỉ hướng còn người phụ nữ thì chèo thuyền. Chiếc thuyền này có thể chở từ 10 đến 12 người, khi lên bờ thì 6 người có thể khiêng được nó.





2122121222
Thuyền da được dùng để vân chuyển, khi cả gia đình muốn thay đổi chỗ ở và cần phả chuyển theo một lượng lớn đồ đạc. Nó cũng dùng để săn bắt hải cẩu hoặc là cá voi. Săn cá voi là một truyền thống cổ xưa.

Trong truyền thuyết của người Eskimos tồn tại một cộng đồng thân thiện giữa con người và loài cá voi. Vì thịt cá voi có thể cung cấp thực phẩm cho cả làng trong nhiều tháng nên cá voi tượng trưng cho tính đồng nhất giữa con người và tự nhiên. Linh hồn của một con cá voi bị giết sẽ trở về với nước và tái sinh.
Những người đánh cá voi mang chiếc túi chống nước được gọi là "jumping furs". Chúng có thể được bơm căng lên và bảo vệ người thợ săn khỏi nước lạnh trong một thời gian. Người thợ săn nhảy lên lưng của con vật bị đâm lao và giữ chặt nó cho đến khi con vật chết. Trên đảo Aleutian, đầu của những ngọn giáo được tẩm thuốc độc. Nó đủ để tạo ra một vết thương lên mình con cá voi. Con cá voi sẽ chết và bị đẩy giạt vào bờ biển bởi gió và dòng nước.





21223

Ngày nay, có khoảng 100 loại thuyền kayak khác nhau. Chúng ta có thể chia thành các loại thuyền kayak dành cho du lịch, thuyền kayak trên biển và thuyền kayak trên nước mạnh. Có loại ít phổ biến hơn là loại thuyền gập và thuyền kayak ống có thể bơm hơi phồng lên.







2122421225Tất cả những loại thuyền kayak ngày nay đều được chế tạo theo kiểu một hoặc hai chỗ ngồi. Các cuộc đua thì dùng thuyền 4 người chèo. Con thuyền được làm từ nhựa như sợi thuỷ tinh, carbon, Kevlar …(thuyền nhựa), hoặc sợi poly tổng hợp (vì vậy còn được gọi là thuyền sợi nhựa điện phân)

hienthuong
08-11-2008, 12:43
Những con thuyền cướp biển



21323
Những con thuyền cướp biển là một phần lịch sữ của người trên bán đảo Scandinavi, bao gồm các nước Đan Mạch, Na Uy, và Thụy Điển.

Chúng đươc chế tạo từ thế kỉ thứ 7 đến thế kỉ thứ 11.





21324 Những con tem này cho thấy những hình ảnh được khắc trên đá vào khoảng 1000 năm trước công nguyên. Bạn có thể thấy một con thuyền nhỏ được mệnh danh là thiên thần của loại thuyền cướp biển. Vào thời gian đó, những con thuyền chỉ có duy nhất một chiếc khung gổ được bọc bằng da động vật.
Về sau, những lớp da này lại được thay thế bằng các tấm ván lót làm bằng gổ. Đặc điểm nổi bật của loại thuyền cướp biển này là có mủi thuyền đôi. Vào năm 1921, một con thuyền như vậy đã được phát hiện ở Danish, thuộc đảo Alsen, về sau nó được gọi là con thuyền "Hjortspring". Nó dài 13m, rong 2m, và có 16 mái chèo.




21325
Một con thuyền cướp biển điển hình có một cái vòm thẳng đứng và phần đuôi thuyền đươc chỉnh cân bằng, nâng cao hơn so với mực nước và có cấu tạo tương tự. Phần giữa lòng thuyền thì hơi nông, và những tấm ván đươc xếp gối lên nhau một cách sơ sài, vì vậy nó đươc gọi là một kiến trúc sai lầm, có thể xem trên con tem phía dưới.
Thuyền cướp biển được chế tạo chủ yếu từ gổ sồi và gổ cây sam. Nhìn con tem phía bên phải bạn có thể thấy một thợ thủ công người Norman đang làm việc, họ xẻ các tấm ván từ những thân cây và đóng chúng vào thành thuyền.
Bức tranh này được chụp từ một tấm thảm ở nhà thờ lớn của xứ Bayeux, Normandy, nước Pháp.




21326
Phía dưới mặt nước, những tấm ván chỉ được gắn vào những tấm gổ mỏng để tăng tối đa độ co giãn cho con thuyền. Rể của cây gổ sam được xẻ ra, bện chặt lại để tạo thành những sợi dây thừng. Phía trên mặt nước, những chiếc đinh gổ hoặc sắt được đóng chặt vào theo phương phâp thông thường. Cuối cùng, những tấm ván được bọc bên ngòai bằng lông của động vật có phủ hắc ín. Tất cả những mái chèo đều có những chiếc cọc ngắn gắn với thuyền, chiều cao không vượt quá 10m. Để xác định mức giới hạn chiều cao của cột, con thuyền được xây dựng với chiều rộng khoảng từ 12 đến 15m.

Tất cả các cánh buồm đều hình chữ nhật, đươc làm từ sợi len hoặc vải lanh dệt kép. Tơ làm cho cánh buồm khỏe hơn, một tấm lưới được phủ lên bề mặt. Tấm lưới này thường có màu sắc là các ô màu đỏ hoặc kẻ sọc. Nếu trong điều kiện ẩm ướt, những cánh buồm sẽ trở nên rất nặng và giảm sự ổn định của thuyền.

Thuyền cướp biển có thêm một bánh lái rất tuyêt hảo. Đó là một mái chèo ngăn và dày, được buộc chặt vào khối gổ bởi sợi dây thừng ở phía bên phải của con thuyền. Mái chèo điều khiển này có thể được dùng như một đòn bẩy quay xung quanh điểm tựa của nó. Nguời cầm chèo sẽ sử dụng nó với mái chèo của bánh lái. Với lí do này, phía bên phải của con tàu được gọi là mạn phải (xuất phát từ cụm từ "steering board") cho đến tận ngày nay.






21327
Đối với tất cả các loại tàu đi biển, thì luôn luôn có những kiểu tàu cướp khác nhau xuất hiện trong suốt các giai đoạn, chủ yếu là tàu buôn và tàu chiến. Chiếc thuyền rộng (Drakars), thuyền dài (skuders), và thuyền nhỏ (karvis) đều là những loại thuyền ra đời sau này. Thuyền buôn hoặc thuyền đi biển cao cấp (hafskips) bao gồm hai loại là Knorr và Byrdingr. Đôi khi thuật ngữ "longboat" được sữ dụng cho cả thuyền buôn.

Thuyền có mái chèo đươc gọi là Batrs, nhưng từ thế kỉ 7, tất cả các con thuyền lớn hơn đều có cột buôm và có cánh buồm. Khi các thủy thủ chèo hoặc chiến đấu thì cột buồm được hạ xuống. Tuy nhiên vẫn có một số con thuyền được xây dựng mà không có cột buôm.





21328
Duòi đây là một số kiểu thuyền buôn Knorr và Knarr: dài 16m, rộng 4 đến 5m, một buồm, 3 hoặc 4 đôi mái chèo ở phía mủi thuyền và phần duới thuyền có dây chằng với cánh bưồm. Chúng có thể chở được 15 tấn hàng, trong điều kiện thuận gió, những con thuyền này có thể đạt tốc độ lên đến 8 hải lí. Chúng đuợc dùng để thám hiểm và thực hiện các chuyến du lịch biển cũng như đi theo các lịch trình buôn bán điển hình. Chiếc Knorr là loại tàu biển cao cấp tiêu chuẩn của thuyền Viking. Phía bên trái chúng ta có thể thấy Skuldelev, chiếc thuyền số 1, được phát hiện ở Danish Roskilde Fjord vào năm 1957. Đó là kiểu thuyền Knorr điển hình.

Loại tàu buôn Byrding thì nhỏ hơn loại Knorr, có chiều dài tối đa là 12m. Chúng được dùng chủ yếu ở biển Baltic, và một số học giả gọi nó là Baltic Sea knorr. Toàn bộ số tem Thụy Điển phía trên đã mô tả lại chân dung kiểu thuyền Byrding.





21329

Một chiếc thuyền chiến lớn được gọi là thuyền rồng (Drakar/Dreki). Thuyền rồng là kiểu thuyền đô đốc, đứng đầu trong các loại thuyền. Chiều dài của nó lên đến 48m, rộng 7 hoặc 8m, có 70 đến 80 mái chèo. Những cánh buồm có chiều rộng lên đến 21m.

Đội thủy thủ gồm 300 nguời, họ đôi khi cũng làm tay chèo trên thuyền luôn. Trái với những loại khác của kiểu thuyền này là có một tấm ván to,cao nối với thuyền để hổ trợ cho các thủy thủ trong các trận đánh. Một trong những chiến thuyền nổi tiếng nhất là Ormen Lange, của vua Olaf Tryggvason, chế tạo năm 998 sau công nguyên. Trên con tem phía bên phải, bạn có thể thấy chiến thuyền đang vượt qua một cơn bão lớn.





21330

Một loại chiến thuyền khác đó là dạng thuyền dài, chia thành hai phần, được gọi là Skuder, Skaid hoặc Skeidh, có 60 mái chèo, còn loại Snigge, Knekja hoặc Schnigge thì có 40 mái chèo. Kích thước của chúng dài 30m, rộng 6m, tầm nước rẽ là 0.8m, có thể chở 200 người, cột buồm cao 9m, cánh buồm rộng đến 15m. Nếu căng hết buồm ra, con thuyền có thể đi được với vận tốc 11 hải lí, Người Na uy nói còn có thể đạt tới vận tốc 20 hải lí hoặc hơn. Tầm rẽ nước nhỏ cho phép con tàu đi được trong những con sông và các vùng nước nông. Con tàu sẽ dễ dàng được đẩy ra biển và thực hiện một cuộc hành trình ngắn vượt qua cửa biển bằng cách dùng các thanh gỗ cuốn. Con tem này mô tả một loại tàu thân dài với dáng mảnh dẻ.






2133121332

Trên các loại tàu chiến, cả mũi tàu và đuôi tàu đều được trang trí bằng các hình trạm khắc công phu. Đầu con rồng là các hình trạm khắc phổ biến nhất, nó phỏng theo hình đầu bò đực, rắn, hoặc rồng đất (Ormen Lange, xem ở trên, có nghĩa là con rồng đất dài)
Trong truyền thuyết về thuyền Viking, các con rồng thường phun lửa mũi của chúng, vì vậy mục đích của những hình trang trí kinh rợn này nhằm để đe doạ hoặc gây nên nỗi sợ hãi từ trong chính kẻ thù. Ở con tem phía bên trái, bạn có thể thấy hình đầu một con rồng lớn. Có một điều hài hước là tất cả đầu rồng đều dịch chuyển và xếp gọn lại được, khi trở về nhà, chúng có thể dùng để doạ ma.

Đuôi thuyền và hai bên mạn thuyền cũng được trang trí. Thông thường, các tấm khiên chắn của thuỷ thủ được treo ở chỗ tay vịn lan can. Trên đỉnh của cột buồm thường có hình một con chim rất đẹp quay theo chiều gió để xác định đường.
Trên con tem này, bạn có thể nhìn thấy một chiếc thuyền Viking trên một khối đá từ thế kỉ 8. Khối đá này được tìm thấy trên đảo Swedish ở Gotland, bạn có thể nhìn rõ cánh buồm, thuỷ thủ, những chiếc khiên của họ, mũ sắt và cả hình trang trí.






21333

Cụm từ Viking không phải là tên của một quốc gia hay một bộ tộc đặc biệt nào mà là tên của một nghề nghiệp. Có một từ cổ là từ "vikingr" nghĩa là "người đàn ông đi ra biển ăn trộm" hoặc gọi tắt là "cướp biển". Franconian gọi họ là Normans. Trong suốt quãng thời gian đó, những con thuyền cướp biển nhỏ đã tấn công cả Bỉên Bắc và biển Baltic. Những con thuyền cướp biển mang theo những kẻ cướp hung ác và tàn bạo.
Những cuộc chiến cướp bóc lớn cùng với những cuộc tấn công có chuẩn bị kĩ lưỡng với những hạm đội lớn đã tấn công quần đảo Anh và đe doạ nước Pháp. Trên con tem này, bạn có thể thấy các chiến binh trên thuyền cướp biển, được trang bị khiên, gươm, rìu chiến, khăn trùm đầu và đội những chiếc mũ giáp (không có sừng), một loại trang phục tiêu chuẩn. Trong suốt thời gian tấn công, họ sử dụng cả giáo mác và cung tên.
Thuyền cướp biển được chế tạo chủ yểu phục vụ cho các khu dân cư nhỏ của người Scandinavi. Hầu hết mọi người đều là những người đinh cư, buôn bán và cả những thợ đóng thuyền tài giỏi.
http://www.vietstamp.net/forum/showthread.php?t=35



2133421335
Chính những tên cướp biển cũng tấn công lẫn nhau. Cuộc xâm lược quần đảo Anh do người Normans tiến hành là một ví dụ. Quân đội của Harold Godwinson và bá tước William của xứ Normandiy đã thực hiện một trận chiến đẫm máu ở Hastings vào năm 1066. Harold đã chiếm được phần đất khá lớn của người Đan mạch và của quốc vương Thuỵ Điển. William thì chiếm được đảo Rollo của Na Uy. Ông ta đã từng giúp đỡ cho vị vua nước Anh không có con là Edward trước đó và từng hứa sẽ trả lại ngai vàng. Những chiến binh của William đã đổ bộ lên miền nam nước Anh và đánh thắng quân đội của Harold. Lịch sử trận đánh ở Hastings đã được thêu dệt và tạo thành hình ảnh tiêu biểu trong tấm thảm nổi tiếng Bayeux, có chiều dài 70m.

Bạn có thể nhìn thấy bộ 6 con tem của Jersey với những hình ảnh trên tấm thảm này, chỉ có vài con tem của Pháp hoặc vương quốc Anh là có. Tấm thảm này đã trở thành đề tài để mô phỏng của rất nhiều con tem trên khắp thế giới.




21336

Trong khoảng năm 860 sau công nguyên, con thuyền cướp biển đầu tiên đã cập bờ Iceland. Chúng là những tên trộm và những kẻ mà xã hội ruồng bỏ, sống ở Foroyars và bị đánh giạt vào bờ bởi một cơn bão. Trong suốt quãng thời gian đó, hòn đảo đã có một vài cái tên khác nhau như Snowland, Gardarsholm, và cuối cùng nó mang tên Iceland.
Trên con tem này , bạn có thể thấy con thuyền của Ingolf Arnarson. Ở mũi thuyền, một vài chiến binh quăng cột trụ của chiếc ghế cao xuống biển, đó là một nghi thức thường thấy.
Theo truyền thống, vị trí mà chiếc cột chạm đến trên bờ biển sẽ là nơi tốt nhất để định cư. Và bằng chứng còn lại chính là Vịnh sương khói Reykjavik, ngày nay là thủ đô của Iceland. 150 năm sau (vào năm 1010), Iceland đã có dân số lên đến 60.000 người.





21337

Những con thuyền cướp biển đã đạt được những thành công lớn trong lĩnh vực hàng hải và đi biển. Thật kinh ngạc không hiểu sao họ có thể thành công trong việc vựơt qua phía bắc biển Atlantic mà chỉ sử dụng các thiết bị đi biển thô sơ (không có cả la bàn), và kiên trì chống chọi lại được những cơn bão lớn. Bất chấp hoàn cảnh, họ nhanh chóng thiết lập những lịch trình và hoạt động cho các thuỷ thủ.
Bình thường, chuyến đi sẽ bắt đầu ở phía nam Na Uy, vượt qua Shetlands, sau đó đi qua Foroyar, rồi đến Iceland. Chiều dài khoảng 730 hải lí, hầu hết các con thuỳên phải mất từ 5 đến 6 ngày để hoàn thành lịch trình. Một câu chuyện dân gian kể lại một chuyến đi trong một thời gian kỉ lục là 4 ngày đêm. Nếu đó là sự thật, con thuyền phải đạt tốc độ trung bình là 7.5 hải lí.





2133821339

Eric, Red là người bị xã hội ruồng bỏ vì tội ác đánh hàng xóm. Lệnh cấm kéo dài 3 năm, nhưng trong suốt thời gian đó, hắn ta đã khám phá ra Greenland (Gronland) và chuyển đến sống ở đó. Con trai hắn ta là Leif Herjolfsson rất nổi tiếng đã tình cờ phát hiện ra Châu Mỹ, Một cơn bão đã đẩy hắn trôi giạt theo hướng tây như lịch trình hắn dự định đi. Vào năm 1001, Leif Eriksson đã đi thuyền đến châu Mỹ, sử dụng chỉ dẫn của Bjarni, và đến bờ biển nơi mà ngày nay gọi là Newfoundland. Ở đó, anh ta đã tìm thấy quả berry, và gọi đất nước này là Vinland (Wineland).
Những chùm nho ở đây giữ cho lịch sử của các thế hệ nơi đây không bị nhầm lẫn, bởi trên thực tế thì họ không trồng trọt gì ở Newfoundland. Vùng đất của Leif đã dịch chuyển một vài lần ở những nơi khác nhau giữa Miami và Newfoundland. Con thuyền cướp biển đó đã cố gắng đến để định cư trên Vinland, nhưng chúng đã phải từ bỏ ý định đó sau nhiều năm, vì nếu tiếp tục, chúng sẽ phải chiến đấu với người bản địa.
Nhìn con tem bên trái, bạn có thể thấy thuyền Knorr của Leif đang thẳng hướng Tây Nam đến vùng Newfoundland. Con tem bên phải thì có hình ảnh chùm nho. Nhưng thực tế thì mọi người gọi đó là quả trứng cá dại, trứng cá mọng hoặc quả nho ngọt màu đỏ.

21340

hienthuong
11-11-2008, 01:09
21440Hanseatic League và những con tàu của họ.21441




21442

Từ thế kỉ 11, có rất nhiều hội buôn ở châu Âu đã liên kết tạo thành một tập đoàn mang tên Hanseatic League (Hanse nghĩa là đông, cộng đồng). Tiêu chí ban đầu của hội là mở rộng tối đa độ an ninh cho các chuyến buôn trong hành trình của họ.
Từ thế kỉ thứ 12, hiệp ước chung này đã mở rộng ra và trở thành liên minh của các thành phố thuộc miền Bắc Đức. Số lượng các thành viên tham gia liên minh này lên đến 200 thành phố ở Châu Âu. Hanseatic League đã mở rộng phạm vi từ bán đảo Scandinavia cho đến Thượng Italia, từ Anh cho đến tận nước Nga. Hanseatic League có sức ảnh hưởng lớn đến kinh tế, chính trị, đời sống văn hoá ở các quốc gia Châu Âu trong gần 4 thế kỉ.

Các tuyến đường thương mại chính trên biển Bắc và biển Baltic được miêu tả cụ thể trên tấm bưu thiếp này. Na Uy, Anh, và Pháp cũng như các chuyến đường thuỷ trên sông ngòi và các hành trình trên đất liền đã bị bỏ qua.





2144321444
Hanseatic League sử dụng các bánh răng trên các con tàu mà họ chọn. Các bánh răng này đã được cải tạo thêm trên thuyền Knorrs của những tên cướp biển. Chúng có những tấm ván lót cao, hình tròn, và cả ván làm bằng chất rắn thô với mũi thuyền dốc và sống giữa thuyền thẳng. Tỉ lệ chiều dài và chiều rộng là 3 trên 1.
Một boong tàu rắn đặc nối tiếp dùng để bảo vệ hàng hoá trên tàu.
Những chiếc bánh răng đầu tiên vẫn có những chiếc bánh lái cổ ở bên mạn phải của tàu, chỗ này sau này đã được thay thế bằng bánh lái đặt ở đuôi tàu.
Những con tàu có một cột buồm đơn, đặt cùng với cánh buồm mặc dù các mái chèo vẫn được sử dụng trong một thời gian dài. Trên con tem phía bên trái, bạn có thể nhìn thấy một cái bánh răng được khai quật ở gần Bremen vào năm 1962.
Mọi người dự đoán nó được chế tạo vào năm 1380, theo một tài liệu về một trong những loại bánh răng nhỏ với các kích thước như sau: dài 77ft, rộng 23ft, dày 7 ft, có thể tải được 42 đến 60 load hàng, xấp xỉ 120 tấn, và chứa được 15 đến 20 thuỷ thủ.

Vào thời điểm lượng hàng chứa được được tính bằng load, điều này mặc dù có khác so với bây giờ. Có rất nhiều load hàng muối, lúa mạch, cá trích… Với những chiếc bánh răng một load hàng có thể lên đến gần 2 tấn.




2144521446
Vào đầu thế kỉ 14, phần khoang phẳng được xây dựng ở phía trước mũi tàu và phía đuôi các bánh răng để làm chỗ tập hợp cho các thuỷ binh, nó còn được gọi là các chỗ điểm phòng thủ hẹp.
Đỉnh của cột buồm cũng được dùng như một đồn chiến. Cột buồm có chiều cao đạt xấp xỉ, có 4 chân cắm trên bề rộng sàn tàu, khoảng 39 đến 79 ft, rộng khoảng 540 đến 1530 ft vuông so với diện tích mặt buồm. Nếu thuyền gặp gió lớn có thể đi được với vận tốc 5 đến 6 hải lí, tối đa lên đến 8 hải lí.

Trên con tem phía bên trái là hình ảnh một chiếc tàu với phát minh về cánh buồm của Dover vào năm 1305. Một chiếc chúng ta có thể nhận ra bánh lái ở mạn cong của thuyền, nhưng nó có thể là nằm ở bên mạn phải của thuyền. Cánh buồm rộng xấp xỉ 1100 ft vuông. Trên con tem bên phải bạn có thể thấy một bánh răng đã cải tiến, được tìm thấy năm 1975 ở Danzig. Chiếc bánh răng trên con tem Ba Lan ở đầu trang cũng có hình dáng tương tự, nó được thiết kế giống cánh buồm ở Stralsund từ năm 1329.

Trong những năm tiếp theo, kích thước của tàu cũng được tăng lên. Vào năm 1227 sức chứa trung bình của một khoang có thể đạt đến 20 load hàng, nhưng vào năm 1300 thì nó đạt đến 40 load hàng. Vào năm 1358, là 60 load, và theo ghi chép thì vào năm 1400, sức chứa trung bình là 100 load hàng, tương đương với 200 tấn hàng hoá.




2144721448
Trên con tem phía bên trái bạn có thể thấy một chiếc tàu đơn cột buồm Hulk (Holk) mang con dấu của thành phố vùng Danzig vào khoảng năm 1400.

So với kiểu dáng của người Hà Lan và những chiếc bánh răng trước đó, thuyền 3 cột buồm đã được phát triển hơn, nó cũng xuất hiện cùng một lúc và cũng được gọi là Hulk, về sau nó được gọi là phiên bản bánh răng mới. Vào giữa thế kỉ 15, những con tàu này có thêm những tấm lót ván nhẵn dùng trong các thuyền nhỏ, có tác dụng làm chúng chạy nhanh hơn nhiều lần. Đỉnh của cột buồm đã được thay đổi và được gọi là Mars, một chòi canh nhỏ dành cho các thuỷ thủ và có thể để được vũ khí. Cột buồm mũi và cột buồm chính được đặt để mang được cả trục căng buồm và cánh buồm, cột buồm nhỏ chỗ lái thì có một lá buồm hình tam giác giúp nó xoay mạnh sang hướng gió một cách dễ dàng. Những con tàu này có các kích thước như sau: dài 98 ft, rộng 26ft, sâu 10ft, sức chứa khoảng 100 load hàng, tương đương 200 tấn hàng hoá, cánh buồm rộng 2700 ft vuông.






2144921450
Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của Hanseatic League ở Biển Bắc và Biển Baltic xuất phát từ thành phố của Liibeck, được mô tả trên con tem phía bên trái. Lịch trình ngoại thương xuất phát từ đây, đến Víby/ Gotland, đến Nowgorod, Bergen, Briigge, London và một vài khu vực quần đảo quan trọng khác.
Trụ sở của hanseatic được đặt trên mỗi thành phố, vì vậy nó còn được gọi là Hansekontor, các trụ sở này quan trọng đến nỗi chúng có những cái tên riêng như Petershò ở Nowgorod, hay Deutsche Brucke ở Bergen, hoặc Stalhof ở London.
Trên con tem phía bên phải hội buôn Hermann Hillebrandt Wedigh được miêu tả khá cụ thể (giống với bức tranh của Holbein). Ông ta là đại diện của Hanseatic League ở London Stalhof. Vào cuối thế kỉ 13, không một ai dám nhận thách thức trở thành chỉ huy Lubecks.
Đây là nơi tổ chức các phiên họp của Hanseatic League, và những người đứng đầu phải đưa ra những đường lối hoạt động đối với tất cả các trụ sở chi nhánh khác.




21451
Hanseatic League buôn bán thóc lúa dư thừa từ các nước phương đông, buôn cá từ Bergen và Visby, vải vóc từ Brugge, buôn sáp ong, mật ong, long thú và hổ phách từ Nowgorod. Trên con tem của Na Uy, bạn có thể thấy khoang hàng Hulk với biểu tượng của loài cá tuyết sấy khô và ướp muối. Vào lúc đó, không có một công ty tàu biển nào.
Một con tàu có vài người chủ, và quyền thuyền trưởng thì cũng chia đều. Việc mua bán thương mại diễn ra chung ở rất nhiều con tàu đã làm tăng nguy cơ bị phá sản và cướp bóc tàu thuyền.



21452 21453
Vào thế kỉ 15, hơn 1000 con tàu với sức chứa ước tính khoảng 45000 load hàng, tương đương 90.000 tấn, đã dong buồm có treo cờ biểu tượng của Hanseatic League. Các chuyến vận chuyển thường hàng năm đạt tới hơn 200.000 tấn hàng. Hơn 300.000 thùng cá đã được vận chuyển từ Schonen mỗi năm. 1100 tàu đã rời Danzig và chở ngũ cốc đến Hà Lan và Bỉ. Số thủy thủ bình quân trên một con tàu có bánh răng lái là 15 đến 20 người, cùng với hàng hoá và một số nhân viên phục vụ khác.

Trong suốt thời gian chiến tranh ở các vùng có cướp biển, ngẫu nhiên có một số lính bị mang theo, số lượng chính xác là bao nhiêu thì còn tuỳ thuộc vào kích thước và sức chứa của con tàu. Một tàu Hulks có thể mang được xấp xỉ 100 người. Trên con tem này, bạn có thể thấy những con tàu cùng với hàng hoá buôn bán ở cảng Danzig. Cổng xuất nhập hàng nổi tiếng Danziger có thể nhìn thấy ở phía sau, các khu cho tàu thuyền quá độ cũng được khai thác cùng thời điểm đó ở Hanseatic League.



21454
Các tàu có bánh lái không phải là tàu chiến. họ chỉ chở các thuỷ binh trong những căn phòng công sự nhỏ để tự bảo vệ. Tuy nhiên một số con tàu thì lại tự động chuyển đổi sang mục đích chiến đấu. Chúng được gọi là những con tàu hoà bình để dẹp loạn kẻ thù.
Một biến thể khác được gọi là "outlieer", là những tàu nhỏ dùng để canh phòng ở các cửa sông.
Còn một loại nữa là Orlogship, được hiểu chính xác là tàu chiến. Những con tàu này được trang bị các loại cung tên, nỏ, sung bắn đá, và máy lăng đá. Trong suốt thế kỉ 15, sự phát triển của sức mạnh quân sự đã mang "arkebusen" ( một loại súng trường tiền trạm), một loại súng nhỏ được gọi là "snakes" và súng thần công hạng nặng được gọi là Karonades.

Về sau các loại súng thần công được gọi là Kartaunen, được bổ sung và đặt cố định ở giữa tàu. Trên con tem này, bạn có thể thấy một con tàu năm 1470 với thang cuốn để cuốn những tảng đá lên trên đỉnh công sự chiến..
Bạn có thể nhận ra lá cờ Hanseatic League màu trắng với những đường sọc đen. Tất cả các tàu có bánh lại đều mang cờ (được gọi là Fluger), biểu trưng cho màu sắc ở quê hương.




21455
Mặc dù là một liên đoàn thương nghiệp yên bình không có những tham vọng chính trị, Hanseatic League không bao giờ bỏ qua những cơ hội quyền lực để đạt được những mục đích của mình. Những mục tiêu tranh giành mới trên biển đã được hoạch định giống như những chuyến hành trình được hộ tống sẵn, phong toả các tuyến đường trên biển và đất liền. Sự phong toả đó đươc tiến hành bởi một đội tàu luôn đi gần nhau nhằm tạo sự bảo vệ tốt nhất. Sự phong toả trên biển và các lực lượng đổ bộ trên đất liền đã được người Đan Mạch và Na Uy trong Hanseatic League điều khiển.

Vào thời điểm đó, các trận thuỷ chiến bao gồm 3 giai đoạn. Đầu tiên, một con tàu tiên phong sẽ cố gắng đạt tới vị trí hướng gió thuận lợi để dễ dàng điều khiển và ngăn giớ từ buồm của kẻ địch. Giai đoạn 2, kẻ tấn công sẽ cố gắng phá tan kẻ thù bằng cách phóng ra những mũi tên, nỏ bắn đá. Giai đoạn 3, thuyền tấn công sẽ cho thuỷ thủ nhảy sang tàu của kẻ địch và hai bên chiến đấu giáp lá cà.





21456
Vào thế kỉ 13 và 14, nạn cướp biển đã đe doạ những lịch trình vận chuyển của Hanseatic và gần như đẩy việc buôn bán trên biển vào bờ vực chấm dứt. Hanseatic League chống trả bằng cách thành lập các đội bảo vệ cực mạnh và mang tên những con tàu hoà bình. Để tăng thêm khó khăn, hầu hết nạn cướp biển được bảo trợ bởi một hoặc nhiều địa chủ quý tộc.
Vào thời điểm đó, các cuộc xung đột bạo lực giữa các quốc gia, các thành phố và Hanseatic League trở nên phổ biến. Cướp biển được thuê mướn, chúng nhận được những con tàu truy lung và chống lại kẻ địch. Cướp biển có thể tìm kiếm nơi ẩn náu và bán của cướp được ở các hải cảng của người bảo trợ chúgn.



21457
Hanseatic League thậm chí còn dùng đến kế sách thuê chính những tên cướp biển. Bời vì chúng vận chuyển lương thực đến Stockholm nên những tên cướp biển được mệnh danh là Vitalienbruder (ông trùm lương thực).
Sau này, chúng được gọi là Likedeeler (người phân phát công bằng).

Vào cuối thế kỉ 14, quần đảo Gotland và Rugen trở thành nơi ẩn náu chính của cướp biển. Năm 1398, các thành phố của Hanseatic và tầng lớp các hiệp sĩ Teutonic đã tập hợp lại tạo thành một hạm đội gồm 84 con tàu và 4000 chiến binh. Hạm đội này đã tấn công những tên cướp biển dám quấy phá vùng Gotland. Chỉ có một số tên trốn thoát được và từ bỏ vùng biển Baltic mãi mãi.

Trên con tem này, đã mô tả "Peter vùng Danzig". Con tàu này được xây dựng ở La Rochelle và gọi là "Pierre de La Rochelle", và được bán đến vùng Danzig năm 1461. Vào năm 1470, nó được trang bị lại phục vụ cho chiến tranh và nhận nhiệm vụ đến eo biển nước Anh. Sau một vài thất bại năm 1472, cuối cùng thì nó cũng bắt giữ một con tàu ở cửa sông Themse (dài 141ft, rộng 39 ft và có 17 khẩu súng).


2145821459
Những tên cướp biển nổi tiếng nhất và có tính truyền thuyết nhất là Goedeke Michels và Klaus Stoertebeker. Chúng bắt đầu sự nghiệp ở biển Baltic với trận đánh có cái tên là "bạn của Chúa và tất cả những kẻ thù của thế giới", chúng di chuyển trong lãnh hải phân chia giữa biển Bắc. Stoertebeker đã xâm chiếm xuống miền Đông Nam từ hòn đảo nhỏ tên Helgoland, ở phía bên phải của cửa sông Elbe và Weser. Michels thường lui tới các khu vực thuộc vùng Tây Nam trước lãnh địa Anh và Bỉ.

Vào năm 1400, một đội tàu từ Hamburg đã giành chiến thắng trong trận thuỷ chiến chống lại đội tàu của Stoertebeker. Stoertebeker đã bị bắt giam và sau đó bị xử trảm ở Hamburg. Có một số câu chuyện khá chi tiết về nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.
Trên con tem phía bên trái, bạn có thể thấy Stoertebeker trên một chiếc huy hiệu. Còn trên con tem phía bên phải mô tả "Con bò đầy màu sắc của Flanders". Nó được điều khiển bởi Simon Van Utrecht và là một phần trong câu chuyện về hạm đội Hamburg. Mọi người cho rằng nó đã chở tới 140 tay súng và chiến binh thiện nghệ.




2146021461
Vào thế kỉ 16, Hanseatic League đã phải chịu một số thất bại khi chiến đấu chống lại người Thuỵ Điển và người Đan mạch. Sau khi sự kiện này xảy ra, một số nước Scandinavia trở nên độc lập hơn và không phụ thuộc vào Hanseatic League nữa.
Người Hà Lan đã tự buôn bán trên biển Baltic. Nứơc Anh tự cách ly và vào năm 1598, nó đóng cửa hải cảng nổi tiếng Stalhof ở London. Cuộc chiến kéo dài 30 năm từ năm 1618 đến năm 1648 đã quyết định số phận của tất cả các công ty thương mại ở trung tâm Châu Âu.
Vào năm 1669, ngày cuối cùng của Hanseatic League đã được tiến hành và chỉ có 6 thành phố tham dự. Phát hiện lớn nhất vào cuối thế kỉ 16 và đầu thế kỉ 17 đó là bắt đầu việc buôn bán mở rộng trên các đại dương. Các nhu cầu cá nhân của người dân trong các quốc gia và thành phố đã chi phối và tạo lập nên các nhịp cầu thương mại giữa các thành phố.. Trung tâm thương mại đã chuyển từ đất liền ra ngoài đại dương.

Trên con tem phía bên trái đã mô tả "Đại bang của Lubeck". Vào khoảng năm 1565,1566, nó đã được xây dựng và trở thành con tàu chiến 4 cột buồm của Hanseatic League ở Lubeck. Tuy nhiên con tàu nàu không bao giờ ra trận và vào năm 1570 nó được sửa chữa lại và dùng vào mục đích phục vụ thương mại. Những thay đổi này cho thấy Hanseatic League không chỉ sử dụng tàu chiến có bánh răng.



Chú thích: Trên cánh buồm Dover, bạn có thể nhìn thấy bánh lái ở mạn phải 21462tàu (xem con tem Guyana phía trên). Có thể có điều này vì người thợ chạm khắc không nghĩ rằng các dấu vết đó lại là hình ảnh lưu trữ lại. Bánh lái chắc chắn là ở bên mạn phải của tàu. Trong tiếng Anh, từ "port" có nguồn gốc từ thói quen khi quay thuyền hơi khó khăn trong các bến. Bức tranh phía sau đã cho thấy các bánh răng của Hanseatic League được chế tạo ở Kiel. Đó là hình ảnh quá trình chế tạo một chiếc tàu vận hành bánh răng năm 1380, được tìm thấy ở Bremen năm 1962.

hienthuong
15-11-2008, 03:52
"][21822
Siêu thuyền buồm (thuyền có tốc độ cao)






Những chiếc thuyền hai buồm có dáng thiết kế gọn gàng được gọi là Siêu thuyền buồm Baltimore (xem con tem phía bên trái.) đã được dùng cho những mục đích cá nhân trong suốt giai đoạn chiến tranh 1812-14 giữa vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Với cột buồm thẳng và cao, gần giống như thuyền buồm và tàu chiến của Pháp, những chiếc thuyền này trở thành những chiếc thuyền tổ tiên của loại siêu thuyền buồm sau này. Trước đây, siêu thuyền buồm giống như những chiếc thuyền chở hàng, nhưng với tốc độ siêu nhanh chúng trở thành phương tiện lý tưởng để buôn lậu thuốc phiện và nô lệ. Vì vậy mà có những thuật ngữ như “Siêu thuyền buôn thuốc phiện” hoặc “Siêu thuyền buôn nô lệ”.




2182321824

Chiếc siêu thuyền buồm đầu tiên, có tên là Cầu vồng, được thiết kế bởi một thợ tàu tên là John Willis Griffiths ở New York . Ông ta đã thử nghiệm ý tưởng của mình với mẫu thiết kế dùng với xe tăng lội nước. Vào giai đoạn đó, những chiếc thuyền buồm lớn có phần đuôi thuyền thon mảnh, phần mũi thuyền hình tròn, như vậy thuyền sẽ dễ dàng được những con sóng nâng lên. Griffiths đã đảo ngược xu hướng này bằng thiết kế với phần mui thuyền thon mảnh, còn phần đuôi thuyền mở rộng hơn. Đặc biệt cột buồm cao hơn bình thường rất nhiều.
Vào năm 1845 con thuyền Cầu Vồng đã thực hiện chuyến hành trình đầu tiên đến Trung Quốc để vận chuyển trà (con tem bên phải)




21825
Cụm từ “Siêu thuyền buồm” xuất phát từ một động từ là “to clip” (cắt mạnh, đánh mạnh), và thuật ngữ “to go at a good clip” (đưa ra một cú đấm mạnh). Tiêu biểu là thân thuyền có hình dáng thon dài và có phần lõm ở giữa, vì vậy mà được gọi là thân dạng siêu thuyền. Thuyền ngập sâu trong nước với vỏ thuyền dài, thon mảnh và rẽ nước thành dòng. Đáy thuyền thì có dạng phẳng dẹt.

Tỉ lệ chiều dài và chiều rộng của thuyền là khoảng 5:1 đến 6:1, sau này, với những thân thuyền khỏe chắc hơn thì tỉ lệ có thể đạt tới 8:1. Với những tỉ lệ lí tưởng này, những con thuyền chế tạo sau được thường được gọi là Thuyền siêu đặc biệt




21826
Hầu hết siêu thuyền buồm đều là loại thuyền có đầy đủ bộ 3 cột buồm. Chiều cao của những cột buồm này cho phép căng cánh buồm lên cao đến tận đỉnh. Chiều cao cột buồm xấp xỉ ¾ chiều dài thân thuyền. Chúng có thêm những cánh buồm đón gió và buồm trong khung gỗ được gắn cố định trên các trụ kéo thẳng ra. Siêu thuyền buồm cuối cùng được xây dựng với 7 cánh buồm vuông trên một cột chính, và trên mỗi đỉnh cột buồm lại có một lá buồm khác.

Con tem này tượng trưng cho “Đám mây bay”, được thiết kế và xây dựng bởi một nhà đóng tàu nổi tiếng là Donald McKay vào năm 1851. Con thuyền có chiều dài 230 ft, tầm sóng là 4lft, sức kéo là 2lft. Tất cả các siêu thuyền buồm đều chạy với tốc độ trung bình là 14 đến 15 hải lí, và tốc độ cao nhất có thể đạt là 20 hải lí.


21827
Trong giai đoạn đó, tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên cũng xuất hiện nhưng sức chứa than phục vụ cho quá trình đốt cho mỗi chuyến hành trình là không đủ, vì vậy mà người ta vẫn cần đến những chiếc thuyền buồm với tốc độ nhanh. 2 siêu thuyền buồm đầu tiên được chế tạo nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ việc buôn bán chè giữa Trung Quốc và New York . Chủ thuyền đã kiếm được khá nhiều lợi nhuận khi những con thuyền nhanh nhất trở về New York với những vụ thu hoạch đầu tiên trong năm. Vào năm 1849, Phù Thủy Biển (xem tem này) với thuyền trưởng của nó đã lập một kỉ lục mới khi đi từ Hongkong đến New York chỉ trong 74 ngày. Còn những con thuyền khác thì phải mất 150 đến 180 ngày để hoàn thành chuyến hành trình đó.


21828
Vào năm 1847, 13 chiếc thuyền đã được đưa vào cảng của thành phố San Francisco , đem theo gần 1000 người dân. 1 năm sau, vàng được phát hiện ở đó. Vào năm 1849, 775 con thuyền khác cũng đã cập bến San Francisco . Nhưng chỉ có duy nhất một siêu thuyền buồm trong số đó tên là Memnon. Nó đã lập một kỉ lục với chuyến đi 122 ngày từ New York đến San Francisco . Vào năm 1849, San Francisco đã thu hút đến 20000 người.
Chi phí giá cả cho tất cả mọi loại hàng hóa đã bị nâng cao lên gấp 10 lần. Một con thuyền có thể thực hiện 3 chuyến đi một năm thay vì 2 chuyến thì được coi như một mỏ vàng. Ngay lập tức, những chiếc siêu thuyền buồm được tận dụng để thực hiện những chuyến đi mua bán chè đến Trung Quốc và vận chuyển hàng đến Cape Horn .




21829
Vào năm 1850, một xưởng đóng tàu ở sông Đông ở New york đã thuê 10000 thợ để đóng một chiếc siêu thuyền buồm mạnh nhất. Tất cả mọi người trong nước đều sục sôi với con sốt vàng. Và chiếc siêu thuyền buồm cũng đến lúc hoàn tất. Chiếc Samuel Russel chỉ cần 109 ngày, còn Sea Witch cần 97 ngày, Surprise chỉ mất 96 ngày để thực hiện chuyến đi đến New York qua cầu Cổng Vàng.

Vào năm 1851, Flying Cloud đã lập một kỉ lục mới trên chuyến đi từ New york đến San Francisco mất 89 ngày và 21 giờ, lần lượt qua các bến neo đậu trong chuyến hành trình liên tục của mình. Trong suốt chuyến đi, 3 cột trụ buồm đã bị gãy trong một trận bãolớn, và cánh buồm cùng với dây thừng cũng bị xé tan tác. Nhưng tất cả thủy thủ trên tàu đã khắc phục thiệt hại chỉ trong 2 ngày và nó đã hoàn thành chuyến đi nhanh hơn 1 tuần so với kỉ lục trước đó. 3 năm sau, vào năm 1854, Flying Cloud thậm chí còn xuất sắc hơn những lần trước, nó đã thiết lập một kỉ tuyệt đối với chuyến đi dài 89 ngày và 8 giờ. Trong khoảng thời gian năm 1852-53, 3 siêu thuyền buồm là Flying Fish, John Gilpin, và Wild Pigen đã hoàn thành cuộc đua nổi tiếng từ New York – San Francisco, và John Gilpin đã giành chiến thắng với 92 ngày.





2183021831
Ở vương quốc Anh, việc chế tạo siêu thuyền buồm bắt đầu vào khoảng năm 1851. Thuyền của nước Anh thì nhỏ hơn so với thuyền của Hoa Kỳ. Chúng được thiết kế cho những chuyến đi đến Trung Quốc, đặc biệt là phục vụ ngành thương nghiệp mua bán chè và thuốc phiện.
Từ cuối thế kỉ 18, ngướic Anh vận chuyển thuốc phiện từ Ấn Độ đến Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc cấm buôn bán loại hàng hóa này. Lợi nhuận khổng lồ đã được tích lũy và làm cho những cuộc xung đột ngày càng tăng cao. Vào năm 1840-42, cuộc chiến thuốc phiện nổ ra giữa Trung Quốc và Anh, kết quả là Trung Quốc phải đầu hàng và phải nhường đi Hồng Kông. Ngày nay, Trung Quốc lại bị nạn thuốc phiện hoành hành. Các tàu buôn của nước Mỹ và Pháp cũng tham gia vào ngành thương mại độc hại này. Con tem bên trái bạn có thể thấy Siêu thuyền buồm Trung Quốc và siêu thuyền buồm trà.




21832
Rất nhiều các cuộc đua tranh nổi tiếng đã diễn ra trong suốt 30 năm giữa các loại đại siêu thuyền buồm. nhưng chỉ có một điều tạo nên ảnh hưởng lớn trên thế giới là “great tea race năm 1866. 16 siêu thuyền buồm đã neo đậu tại Trung Quốc, chờ cho mùa thu hoạch trà đầu tiên đến. Tất cả đều muốn giành được phần thưởng đáng giá đến mức khó tin, là thêm 10 shilling trên 1 tấn.
Trong số 16 con thuyền, 5 chiếc được đánh giá cao là Teaping, Fiery Cross, Taitsing, Serica và Ariel. Sau vụ thu hoạch, hàng hoá được chất lên tàu, 5 con thuyền này dường như “bay” qua những cơn bão của miền đông nam để đến mũi Hảo Vọng. Con thuyền và các thủy thủ đã hoạt động hết công suất.

Những con sóng lớn gần như quét sạch mọi thứ trên boong tàu, và 2 cột trụ của Ariel bị phá gãy. Sau đó, con tàu này hướng lên phía bắc, dọc theo bờ biển châu Phi trong cả 1 tháng. Sau 98 ngày, tàu Teaping (tem bên trái) và tàu Ariel (tem bên phải) đã cùng đạt đến tầm nhìn của nhau, trên kênh đào nước Anh. Trên cả hai con thuyền những miếng vải bạt cuối cùng cũng đã hòan thiện. Lần lượt từng con thuyền chạy về phía cửa sông Thames . Ariel đã đến vùng neo tàu trước, dẫn đầu khoảng 8 phút nhưng lại không duy trì được lợi thế do thủy triều lên chậm. Ngay sau đó, Teaping đã tiến đến ngang bằng và cuối cùng giành chiến thắng.. Tuy nhiên cuộc chơi công bằng và giải thưởng vẫn được chia đều cho cả hai. Serica đã đến London trên cùng đợt thủy triều đó nhưng chậm hơn 1 tiếng rưỡi. Hai ngày sau đó, Fiery Cross và Taitsing cũng cập bến London .




2183321834
Vào năm 1851, vàng được tìm thấy ở Australia , và đám đông sốt vàng lại làm chuyến di cư đến đó. Những siêu thuyền buồm đã đi vượt biên giới, vòng qua mũi Hảo Vọng. Trong chuyến đi trở về nhà, họ mang theo đầy len, bơi vượt Thái bình dương, vòng qua Cape Horn trên đường đến Châu Âu. Vì những cơn gió xuất phát chủ yếu từ phía sau., nên đây là một sự thuận lợi lớn cho những chiếc buồm lớn căng trên các siêu thuyền.
Một chiếc siêu thuyền buồm điển hình của nước Anh là Orient (tem bên phải), nó được xây dựng năm 1853, nhằm phục vụ cho ngành ngoại thương của Australia . Con thuyền Lightning (tem bên trái) được Donald Mckay vào năm 1854 ở Boston , đóng cho chủ tàu là James baines và Co. of Liverpool. Chiếc thuyền này cùng với chiếc James Baines đã trở thành những siêu thuyền buồm nhanh nhất trên các chuyến đi buôn của người Úc. Cả hai đã cùng lập nên những kỉ lục, từ Melbourne đến Liverpool chỉ trong 63 ngày. Chiếc Lightning được tôn sung là chiếc siêu thuyền buồm chạy nhanh nhất mà đã từng được chế tạo. Vào thời tiết có bão, nó vẫn đi được với tốc độ 18 đến 21 hải lí. Cột buồm chính của nó cao 164 ft, cánh buồm dài nhất là 95 ft, tổng cộng chiều dài của thuyền là 279 ft, rầm dài 42 ft, draft (em không biết nghĩa của từ này) là 23 ft, khối lượng tịnh của nó là 2084 tấn.

Sau khi khởi công kênh đào Suez vào năm 1869, những chuyến đi đến Trung Quốc được tiến hành bởi các thủy thủ đoàn, tuy nhiên những chiếc siêu thuyền buồm vẫn tiếp tục phục vụ những chuyến dài hơn đến nước Úc.




21835
Con thuyền Thermopylae của Anh (tem bên trái) được hạ thủy vào năm 1868. Chủ của nó, G.. Thompson, khẳng định rằng đó là con thuyền buồm nhanh nhất trên thế giới. Nó chỉ cần 91 ngày để thực hiện chuyến đi đầu tiên từ Trung Quốc đến London , là một kỉ lục thật sự ấn tượng.. Một con gà trống bằng vàng được gắn trên đỉnh của cột buồm chính như là biểu tượng cho vai trò dẫn đường giữa những chiếc siêu thuyền buồm khác của Anh. Thuyền trưởng Jock Willis, một người Scôtlen, đã rất khó chịu với sự khoe khoang đó, và 1 năm sau ông chế tạo con tàu Cutty Sark, một con tàu có mọi kích thước lí tưởng, thách thức sự nguy nga của Thermopylae.


21836
Các số liệu của Cutty Sark (tính đến nay) là 272 ft chiều dài tổng cộng, 213 ft chiều dài ở dưới nước, 36 ft rầm, 20 ft draft, tổng trọng lượng là 2133 tấn. Với tất cả các cánh buồm thì diện tích nó lên đến 32,670 ft vuông.

Trong hai chuyến hành trình đầu tiên đến Far East, Cutty Sark đã không vượt qua được kỉ lục thời gian của Thermopylae . Nhưng trong chuyến đi thứ 3, cả hai con thuyền đã gặp nhau trên đường. Chúng rời Thượng Hải cùng ngày, nhưng Cutty Sark đã bị mất bánh lái trong một cơn bão lớn ở Ấn Độ dương. Nó mất 4 ngày để chế tạo và thay thế bánh lái mới. Con tàu về London chậm hơn 1 tuần so với Thermopylae . Nhưng dù sao thì thủy thủ và con tàu cũng đã lập một chiến công đáng ghi nhớ trong lịch sử hàng hải: với một chiếc bánh lái không hoàn chỉnh được thay thế, mà nó vẫn vượt qua hơn 7000 hải lí chỉ trong 60 ngày. Những chuyến đi biển sau đó không thể nào đạt thành công để so sánh được.
8 năm sau, ngành thương nghiệp Trung Quốc đã có đến 5 năm là có những chuyến hàng khác nhau trên những lịch trình khác nhau. Vào năm 1880, cột buồm và diện tích buồm của nó đã bị cắt giảm xuống.




21837
Sau đó, vào năm 1885, thuyền trưởng Richard Woodgett đã đưa ra một yêu cầu, đó là bổ sung thêm cánh buồm và dây thừng mới, và chiếc siêu thuyền buồm bây giờ đã có thể gia nhập vào việc buôn bán giữa UK và Úc, nó đã gặp lại đối thủ cũ là Thermopylae. Dưới sự điều khiển của người chủ tài ba, Cutty Sark đã trở thành siêu thuyền buồm nhanh nhất và thành công nhất trong giai đoạn đó. Cũng trong năm đó, thời đại của Thermopylae đã bị phá vỡ chỉ trong 7 ngày. Sau đó, Cutty Sark đã luôn chiến thắng trong những cuộc đua với đối thủ cũ. Thậm chí đến những thủy thủ cũng không muốn rời xa con thuyền. Vào năm 1889, nó đã chạy nhanh hơn cả con tàu chạy bằng hơi nước Britannia với tốc độ là 17 hải lí. Năm 1895 nó được bán cho một ông chủ người Thổ Nhĩ Kỳ, và Cutty Sark tiếp tục vận chuyển hàng hóa cho đến năm 1922. Sau đó, nó quay trở lại nước Anh và phục vụ một thời gian trong việc vận chuyển trang thiết bị trường học. Năm 1954, nó được đặt một chế độ sửa chữa đặc biệt tại Greenwich . Thật tuyệt vời khi nó được khôi phục lại toàn bộ như 130 năm trước, Cutty Sark vẫn được đặt trong bảo tàng về tàu biển như là biểu tượng của một kỉ nguyên vĩ đại. Bất kì người nào đi đến London đều nên đến chiêm ngưỡng nó.



http://www.temviet.com/forums/showthread.php?t=809

*** Có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc chiếc thuyền buồm nào giữ kỉ lục về chuyến đi dài ngày nhất. Giải vô địch về biển được tiến hành, và nó chia ra mỗi chặng dài 465 hải lí, và tốc độ trung bình là 19.4 hải lí. Lightning đi được 436 nm, tốc độ trung bình là 18.2 hải lí. Vào năm 1900, Tlyiing-P-Liner Potói đạt 540nm, tốc độ trung bình là 22.5 hải lí. Tuy nhiên, P-Liners, con thuyền buồm loại khác, lại mở ra một chương đặc biệt về lịch sử ngành hàng hải. Hãy đọc trang Preussen và bạn sẽ biết tại sao

hienthuong
22-11-2008, 10:53
Thuyền buồm “Preussen”



22148
PREUSSEN, Nữ Hoàng Biển Cả





Chiếc thuyền buồm lớn nhất của Đức và cũng là lớn nhất trên thế giới vào thời điểm đó.

Được chế tạo năm 1902 tại một xưởng đóng tàu của Joh.. C. Tecklenborg ở Geestemuende

Loại thuyền 5 cột buồm chính , 48 lá buồm và rộng khoảng 5560 mét vuông.

Nó dài 132 m, rộng 16.4 m, cột buồm cao nhất cao 68m.

Tổng tải trọng là 11150 tấn, chứa được 8000 tấn hàng hóa, thủy thủ là 45 người.

Tốc độ cao nhất là 17 hải lí, tốc độ trung bình đạt loại tốt nhất là 15.3 hải lí

Tốc độ bình thường là 8 hải lí, nhanh hơn cả loại được trang bị dụng cụ đầy đủ nhất thời đó.

Nó có boong tàu được kéo bằng dây tời bởi động cơ hơi nước, nhưng không có một động cơ hỗ trợ nào.




2214922150
Preussen thuộc sở hữu của một công ty tàu biển Đức là Ferdinand B. laeisz, ở Hamburg .

Tất cả những con tàu của Laeisz đều bắt đầu bằng chữ P, vì vậy chúng được gọi là

Flying P-liner!

Vì tất cả những con tàu của Laeisz đều bận rộn với những chuyến buôn salpetre đến Chilê, trong chuyến đi nhanh nhất của mình, Preussen chỉ cần có 57 ngày từ kênh đào nước Anh đến Iquique.

Những con tàu nổi tiếng khác của Flying-P-Liner là Potosi , Passat, Pamir, Pommern, Priwall, Peking, Padua , Ponape…




2215122152
Chiếc Preussen chỉ hoạt động có 8 năm. Vào tháng 11 năm 1910, Preussen đã bị va chạm với tàu chạy bằng hơi nước của Anh, . Con tàu chạy bằng hơi nước này đã cố gắng vượt qua mặt tàu Preussen nhưng vì tính toán sai tốc độ nên đuôi của nó bị tàu Preussen phá nát

Sau vụ va chạm, Preussen đã cố gắng về cảng Dover với sự giúp đỡ của một con tàu khác. Nhưng một lần nữa dây chằng bị đứt và nó lao vào vách đá nhô ra ở bờ của Dover . Một lần nữa 12 con tàu kéo đã cố gắng móc nối lại để kéo Preussen từ vụng nước sâu, nhưng không thành . Và Preussen cuối cùng bị họa bất dung thân khi một cơn bão lớn , xô thuyền vào vách đá tan nát.
22153

chimyen
01-01-2009, 23:37
Tớ cảm ơn bài viết về thuyền buồm rất hay của bạn Hienthuong nhé ! ;))
Mong bạn viết nhiều bài hay hơn nữa :D

chimyen
03-01-2009, 11:11
"Thuyền ta chầm chậm vào Ba-bể
Núi dựng cheo leo, hồ lặng im
Lá rừng với gió ngâm se sẽ
Họa tiếng lòng ta với tiếng chim
Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba-bể
Trên cả mây trời trên núi xanh
Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ
Mái chèo khua bóng núi rung rinh.
Thuyền ta vòng mãi trên Ba-bể
Cây chạy theo thuyền thuyền vẫy đi
Phải ta vượt khỏi nơi trần thế
Tới giữa mông lung, giữa diệu kỳ..."


24937

Nhắc đến Hồ Ba Bể du khách đều nghĩ ngay đến thuyền độc mộc, thuyền độc mộc gắn liền với cuộc sống của người dân vùng hồ Ba Bể, thuyền rộng khoảng 30cm, dài khoảng 2,2m đến 2,5m (làm bằng gỗ gì CY chưa biết :D ) , thuyền chỉ một người lái và chở một người, rất lãng mạn . thuyền độc mộc lấy thăng bằng không dễ, phải tập , nếu không quen, lên thuyền sẽ chòng chành, chòng chành và thuyền sẽ rất dễ dàng lật úp
Vào mùng 5 tết âm lịch hàng năm , lễ hội " Lồng Tồng" ở Hồ Ba Bể có cuộc thi thuyền độc mộc , dưới các tay chèo của nam thanh nữ tú tuyền Độc Mộc lao đi vun vút như những chiếc thoi đưa, kéo theo đằng sau là những làn nước trắng và trên bờ là tiếng reo hò cổ vũ ....

manh thuong
03-01-2009, 12:42
Quê Hương
Tế Hanh

"Chim bay dọc bể đem tin cá"
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông.

24940

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá .
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió ...

24938

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về .
"Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe",
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ .

24939

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

hienthuong
04-01-2009, 11:11
25044 Từ Những chiếc ghe sông đến những chiếc tàu châu báu 25045



25046
Trung Quốc có ba hệ thống sông ngòi lớn, xuyên suốt từ tây sang đông (là hệ thống sông Hoàng Hà, sông Trường Giang, và hệ thống sông Hsikiang). Thêm vào đó, có một mạng lưới các nhánh sông, hồ, kênh ngòi nối với những con sông lớn (con sông chính là Kênh Vương lớn nhất trong số đó). Vì vậy, Trung Quốc có hệ thống tàu bè đi lại đường thủy xấp xỉ 108000 km. Hơn nữa có đến 18,000 km đường biển và gần 5,000 hòn đảo lớn nhỏ. Vì vậy, sẽ không bất ngờ lắm khi vào khoảng năm 2700 trước công nguyên, những con thuyền đầu tiên của Trung Quốc đã được xây dựng.
Các nhà đóng tàu của Trung Quốc đã có hơn 4000 năm lịch sử. Từ “ghe thuyền” có xuất sứ từ một từ trong tiếng Mã lai. Chắc chắn những người Châu Âu đã đặt tên cho những chiếc thuyền của Trung Quốc, và chúng còn có cả boong tàu và buồm nữa. Con tem phía trên, một con tem địa phương được in ở Chung Kinh, đã thể hiện một chiếc ghe trên sông Trường Giang. Chiếc ghe này có cột buồm khá cao, và có thể đón gió thổi tới qua những con đê.



25047 25048
Trước khi những chiếc ghe được lắp thêm máy móc, có khoảng hơn 100 loại ghe thuyền khác nhau. Nếu một chiếc dùng để di chuyển trên khu vực nào đó, thì sau đó nó sẽ được phân chia thành loại ghe đi trên sông, đi dọc bờ biển hoặc loại dành để ra khơi xa. Để phân loại chúng, người ta dựa vào chức năng của chúng: thương mại, du lịch, đánh cá, cảnh giới, hoặc thuyền chiến. Thường thì những chiếc ghe thuyền này được thiết kế phù hợp với sông ngòi, thị trấn, các đảo, các tỉnh, và cả các cảng.. ví dụ như chiếc ghe thuyền Thượng Hải.
Ở con tem bên trái, chúng ta có thể thấy chiếc ghe sông của người Trung Quốc ở miền nam, chiều dài là 50 đến 57 ft, xà rầm dài 10-15 ft, có sức chở khoảng 20-30 tấn hàng hóa. Có một cột buồm, một cánh buồm, và thủy thủ là 3-5 người. Trên con tem bên phải là chiếc ghe thuyền Yucheng. Nó dài khoảng 33 ft, xà rầm xấp xỉ 7 ft, chở được 1 tấn hàng , có 1 cột buồm, 1 cánh buồm và 2 thủy thủ.



25049 25050
Những chiếc ghe thuyền là một sự tiến bộ so với những bè mảng đầu tiên và những chiếc thuyền hộp của người Trung Quốc. Ghe thuyền của họ thường có những tấm ván nối, và có cả xà ngang ở mỗi đầu. Đuôi thuyền và mũi thuyền luôn trong trạng thái sắn sàng.
Những miếng vỏ bọc được dán nhựa bao quanh thuyền. Người ta dùng xi măng để hàn cùng với vôi, nhựa Tùng và dầu gai. Toàn bộ phần gỗ thân được ngâm hai hoặc 3 lần 1 năm trong dầu Tùng. Có những chiếc ghe thuyền có ván giữa và ván bên mạn nhưng cũng có loại không có. Bánh lái phần đuôi tàu được dùng để giữ cân bằng giống như các bánh lái thông thường khác. Với những ghe thuyền đi biển, thì bánh lái có thể được điều chỉnh cao hơn bởi dây tời. Vì mỏ neo mà họ sử dụng là neo của những thuyền đánh cá Trung Quốc, nên họ dùng cả neo sắt và neo đá.
Ghe thuyền có thể có đến 5 cột buồm, những con tàu châu báu có thể có đến 10 cột buồm như trong tem bên dưới. Cột buồm không giữ lại và cũng không có cột buồm trên, họ muốn dùng sloppy . Chỉ có những người ở phía nam Trung Quốc là dùng dây thừng chằng cột buồm và giữ lại.


25051 25052
Ghe thuyền có cánh buồm hình thang. Trên cánh buồm, có rất nhiều thanh tre được ghép vào trong một khoảng cách ngắn. Những buồm trước kia còn dùng sậy, cây bấc hoặc là rơm rạ. Để tránh bị xé rách và mất đikhung, những thanh tre có vai trò rất quan trọng.
Chỉ đến giữa thế kỉ 19, buồm bằng vải mới được sử dụng. Cột buồm được chế tạo bằng cây gai dầu, hoặc các đố tre. Cánh buồm được làm rộng và buộc chặt vào cột buồm,có thể nhìn minh họa ở con tem bên phải. Với dây kim loại giữ cố định ở mép trước, cánh buồm có thể nhận được 15 đến 30 % diện tích gió trên bề mặt trước khi cột buồm thay đổi hướng. Có thể bằng cách đó, thuyền sẽ tránh bị chòng chành hoặc bị khuất gió.
Trên con tem bên trên mô tả dây leo giữ cánh buồm và treo cờ quốc gia trên đỉnh cột buồm, ở xa sẽ dễ dàng nhận ra. Ở dưới có cả một hệ thống dây kéo rất phức tạp. Những ghe thuyền lớn thậm chí còn có cả buồm mái. Trên tem Sing là một ghe thuyền tên Fujian . Nó là con thuyền chở hàng hóa dọc bờ biển. Chiều dài của nó là 65 ft, xà rầm xấp xỉ 16 ft, và có sức chứa từ 60-80 tấn. Có 3 cột buồm với 3 lá buồm, thủy thủ khoảng 10 người.



25053 25054
Ở mỗi xương buồm đều có một đường viền, dùng để kết nối tạo nên hệ thống dây kéo ở dưới., nhìn mô tả trong con tem bên phải. Người thủy thủ trên ghe thuyền phải giữ một dây kéo, nhằm điều chỉnh cánh buồm chuẩn hơn. Có một loại ghe thuyền tên là Kualou, có nghĩa là bí ngô. Giữa hệ thống những cột buồm chính, thân của nó bị thu hẹp lại giống như phần eo của con ong bắp cày. Thiết kế kì lạ này nhằm để qua mặt các điều lệ hải quan, vì chi phí sẽ phụ thuộc vào chiều cao của hàng tại vị trí cột buồm lớn nhất.

Trên con tem này chúng ta có thể thấy một chiếc ghe thuyền dùng đi trên biển. Nó dài khoảng 80-90 ft, xà rầm khoảng 15-20 ft, sức chứa hàng lên tới 100-150 tấn, có 3 cột buồm với 3 lá buồm, thủy thủ tối đa là 20 người.



25055 25056
Trên sông ngòi, những chiếc ghe thuyền thường chạy ngược dòng. Những người chèo ghe thường đi thành các phường, hội với nhau. Họ đẩy chiếc thuyền với một sợi dây kéo, dài khoảng 300-600ft. Những chiếc dây này được vặn bằng cật tre tươi, ngâm trong dầu Tùng trước khi sử dụng. Dây kéo được buộc chặt vào thân thuyền hoặc những điểm móc đặc biệt được gắn trên thuyền, có thể là cột buồm. Một người chịu trách nhiệm chính sẽ ra mệnh lệnh, và đánh trống để tạo nhịp và tốc độ. Chiếc ghe thuyền sẽ được đẩy đi, trong tư thế đứng, nhìn mô tả trên con tem. Trên những chiếc ghe sông, họ đẩy thuyền lên phía trước.
Vì thiết kế có cả cabin và khoang lái nên những chiếc ghe đó có thể trở thực hiện những chuyến đi dài. Chiều dài đạt khoảng 65ft, xà rầm là 16 ft, chở được khoảng 50 tấn, hai cột buồm và 2lá buồm, thủy thủ là 18 người.



25057
Con tem trên, ta có thể thấy một chiếc thuyền chiến với hệ thống mái chèo và bệ đỡ ở đuôi thuyền. Nạn cướp biển rất phổ biến ở Trung Quốc. Đó là lí do vì sao cần trang bị những chiếc ghe chiến để bảo vệ những chuyến hàng được an toàn. Để bảo vệ khỏi bị cướp, những chiếc ghe hàng được chèo giữa đội bảo vệ.



25058
Người Trung Quốc không chỉ phát minh ra thuốc súng. Họ còn có bằng chứng cho thấy vào thế kỉ 14 họ đã sáng chế ra súng bắn đá cao su, súng bắn cầu lửa, ngư lôi, roc két, và máy bắn cung, với những thủy thủ có thể bắn được 20 mũi tên trong 15 giây,

hienthuong
08-01-2009, 10:06
(tiếp theo)

25613
Trên con tem của Hồng Kông, chúng ta có thể thấy một ghe thuyền đánh cá dài 65 ft, xà rầm khoảng 16 ft, có thể chở được 50 tấn hàng hóa, 3 cột buồm, ba lá buồm, và có 10 thủy thủ. Lưới dùng để đánh cá được kéo bằng tời hoặc bằng tay. Họ thường bắt cá vàng, cá chỉ và calmaries.




25614 25615
Ở bờ biển phía nam Trung Quốc là đảo Hải Nam . Trên con tem phía bên trái là một chiếc thuyền ghe Hainan . Nó dài khoảng 40 đến 55 ft, xà rầm là 20 ft, có thể chở được 30 tấn hàng, 3 cột buồm, 3 lá buồm, thủy thủ là 5 đến 10 người. Ghe thuyền Hainan có phần vỏ ngoài là kèo, đuôi nhọn và nhà trên sàn tàu ở phần thân sau.

Trên con tem bên phải, ta có thể thấy một chiếc ghe thuyền dùng đi biển tên là Jiang Trader, nó gần giống với chiếc ghe Peichihli. Nó dài 80 – 170 ft, xà rầm khoảng 30 ft, sâu 14 ft, có thể chở đến 180 (240-360) tấn, năm cột buồm với 9 lá buồm, thủ thủy là 20 – 30 người. Bắt đầu từ thế kỉ 13, người Trung Quốc đã chế tạo những chiếc ghe thuyền lớn để đi biển phục vụ cho ngành thương mại với các quốc gia khác.

Ở phần đuôi của con tàu được sơn các kí tự Trung Hoa đặc biệt. Thêm vào đó còn có cả một số con số Ả rập nữa. Nó được sử dụng như một hệ tham chiếu trên ảnh hưởng từ Châu Âu.



25616 25617
Trên con tem bên trái, là hình của chiếc ghe thuyền Ningpo. Nó là chiếc ghe đi biển, dài từ 114 đến 180 feet, xà rầm dài 20 đến 28 ft, sức chở hàng khoảng từ 180 đến 400 tấn, có 3 cột buồm với 3 lá buồm, thủy thủ từ 38 đến 42 người, tối đa là 60 người. Cũng có một loại thuyền ghe Ningpo khác nhỏ hơn dùng để đánh cá. Những chiếc ghe thuyền này nhìn rất nổi bật bởi các hình vẽ đặc biệt. Chiếc ghe thuyền được coi như biểu tượng của đời sống và gần gũi với thế giới đại dương. Đuôi thuyền nhô cao giống như phần đuôi cá vươn lên vậy. Ở phần mũi thuyền, có một khuôn miệng luôn mở ra và cũng được sơn nổi bật. Ở cả hai bên mạn thuyền người ta trang trí những hình mắt cá, người ta cho rằng như vậy sẽ luôn đi đúng hướng.Ở đuôi thuyền là hình chim Feng, nó là một biểu tượng của thủy giới, và nó giống như là dấu hiệu của Chúa phái xuống giúp con người vậy.

Trên con tem bên phải là hình chiếc ghe Hangchou với những hình vẽ phức tạp. Mũi thuyền được trang trí bởi hình đầu một con hổ, nó sẽ bảo vệ con thuyền và trừ đuổi tà ma.Ở hai bên mạn thuyền, những hình trang trí và các biểu tượng Ying-Yang cũng được vẽ nên, nói tượng trưng cho sức mạnh từ ngàn xưa. Ở đuôi thuyền cũng sẽ nhìn thấy biểu tượng chim Feng.


25618
Bên trái chúng ta nhìn thấy một chiếc thuyền ghe đi biển hoặc đi trên sông, còn con tem bên phải là một chiếc ghe đi biển dài ngày. Nó được dùng vào mục đích thương mại. Nó cũng phục vụ việc vận chuyển lương thực trong các vùng lân cận như rau, đậu, và lúa gạo. Mặt khác còn cung cấp các loại hàng hóa như tơ lụa, đồ sứ, thuốc súng, trà và các loại gia vị. Phía dưới bên trái chúng ta có thể thấy 2 con thuyền chuyên chở hàng thủy. Trên một chiếc thuyền, có thể thấy một người đang đứng với mái chèo trong tay. Mái chèo này giống dùng để đẩy thuyền đi và nó vẫn được dùng phổ biến cho đến sau này.


25619
Trong suốt triều đại nhà Minh (1368-1644), những xưởng đóng tàu, các loại tàu và ngành thương nghiệp của Trung Quốc có sự phát triển lớn mạnh và đạt được nhiều thành tựu. Bắt đầu từ năm 1400 cho đến nay, con thuyền lớn nhất trên thế giới đã được xây dựng ở đây. Những con thuyền lớn được ví như những kho báu vì chúng đem lại giá trị tương đương với những kho báu. Có một số thống kê như sau: chiều dài từ 460 đến 540 ft, xà rầm khoảng 180 ft, sức chứa hàng hóa là 3600 tấn, có 16 khoang không thấm nước, thân tàu có 3 lớp ván, nguyên liệu chủ yếu làm từ gỗ và tre, có 7 đến 10 cột buồm, lá buồm hình thang, thủy thủ lên đến 650 người, có trang bị súng thần công, súng bắn lửa, súng cao su để chiến đấu trong trường hợp xảy ra thủy chiến.

Nhìn vào con tem bên dưới cùng, nó mô tả hình ảnh chiếc thuyền Nina (L69 ft) của Colombus, nó thể hiện kích cỡ thu nhỏ của những chiếc thuyền khổng lồ quý hiếm trên thế giới.


25620
Từ năm 1405 đến năm 1433, người Trung Quốc đã có được 7 bằng chứng lịch sử về những chuyến đi đến Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, đến vịnh Ba Tư và cả Châu Phi. Các chuyến đi đó đã được thực hiện 80 năm trước khi Columbus khám phá ra châu Mỹ. Người điều khiển những chuyến đi vĩ đại này là nhà hàng hải hàng đầu của Trung Quốc, Zheng He (Zheng Ho). Zheng He (1371-1435) sinh ra trong một gia đình Moslem. Lúc 10 tuổi, ông đã phải vào cung phục vụ triều Minh. Giống như những người khác, ông cũng bị …hoạn, rồi sau đó được đào tạo để phục vụ cho quân đội. Năm 1403, ông nhận được lệnh xây dựng một đội tàu rộng lớn chuyên cung cấp và phục vụ các tàu chiến. Ngành tàu biển bắt đầu phát triển.. Trên những món hàng lưu niệm, Zheng He luôn được mô tả với những chiếc thuyền khác nhau trong hệ thống của mình. Lá cờ trên những chiếc thuyền của ông có tên là Quần tụ các vì sao.




25621 25622
Trên con tem bên trái, ta có thể thấy Zheng He, còn ở phía sau là hình ảnh những con tàu của ông với 7 chuyến hành trình vĩ đại từ năm 1405 đến năm 1433. Những tư liệu còn lại cho biết đội tàu của ông từ khoảng 160 đến 317 con tàu, ước tính số lượng đó chiếm khoảng 2/3 số tàu mang lại nhiều giá trị. Số lượng thủy thủ theo thống kê là từ 27000 đến 28000 người, bao gồm cả 2000 người là vợ hoặc người hầu. Chính họ đã khám phá ra những vùng đất và chiếm thành thuộc địa gần đây. Bên cạnh đó những gia súc sống, các loại ngũ cốc nảy mầm sẽ đảm bảo vitamin C cần thiết cho các thủy thủ, có cả các thiết bị cất trữ nước sạch trên tàu. Những con tàu cũng được trang bị súng thần công, pháo thăng thiên, súng bắn lửa (xem con tem bên phải)


25623 25624
Ngày nay mọi người giả định rằng một cuộc viễn chinh do người Trung Quốc tiền hành đến vùng biển Atlantic, qua Greenland và vòng qua Cape Horn . Vào năm 1993 ở California , một chiếc thuyền xưa đã được trục vớt, với những tấm bản đồ chỉ ra những vùng biển ở rất xa, nơi mà 'họ' luôn muốn khám phá trước nhất. Một nhà sử học người Anh G. Menzies đã sưu tập được bằng chứng chỉ ra rằng người Trung Quốc đã có những thuộc địa nhỏ là các quốc gia nằm ở ven biển Châu Mỹ. Để rõ hơn, hãy xem con tem bên trái. Với những con tàu quý, những cột buồm bao giờ cũng dễ dàng nhận ra.


25625
Vào giữa thế kỉ 15, Trung Quốc đã có một sự thay đổi lớn về khuynh hướng triết học. Giữa các đảng phái đã diễn ra những tranh luận gay gắt về cai quản chính trị. Nhóm Confizius được đa số chấp nhận hơn vì những tranh luận của họ về nền nông nghiệp trong nước và việc phát huy nền văn hóa dân tộc chống lại ngành thủy thương và sự cai trị của các quốc gia nước ngoài. Đất nước này đã tự cô lập chính mình, tập trung chính trị được áp dụng rộng rãi. Nghề đi biển và ngành thương nghiệp với các quốc gia khác bị chấm dứt. Hệ thống kênh mương nội địa bị thay đổi, nền kinh tế nội địa bị ảnh hưởng. Việc chế tạo một số tàu có nhiều hơn 1 cột buồm bị ngăn cấm, các tư liệu về các cuộc viễn chinh cũng bị phá hủy. Ngành thủy quân bị bãi bỏ, vào năm 1503 nó đã rút lại chỉ còn 1/10 so với quy mô trước đây.

Nhìn hình trên ta có thể thấy một chiếc ghe sông không có cột buồm, đang di chuyển trên một con kênh trước khi nó bị phát hiện.


25626
Trên con tem này là chiếc ghe Keying của người Trung Quốc. Nó có chiều dài 148 ft, xà rầm ước chừng khoảng 36 ft, cột buồm cao nhất là 92 ft, khoang thuyền chứa được 750 tấn hàng. Năm 1846 nó được bán cho một người Anh. Họ đã đưa chiếc thuyền từ Hồng Kông ( tháng 3 năm 1847) về đến Anh là tháng 3 năm 1848. Trên dường, nó đã ghé qua cảng St Helena (tháng 4 năm 1847). Đó là lí do tại sao con tem này ra đời. Với chuyến đi của mình, nó đã chứng tỏ rằng một chiếc ghe hòan toàn đủ sức để thực hiện những chuyến đi vòng quanh thế giới như một con tàu thực thụ.




25627
Đây là con tem về ghe thuyền trong văn chương.

Pearl S. Buck, một tác giả người Mỹ, (1892-1973), bà lớn lên ở Trung Quốc và lập gia đình ở đó. Bà là một chuyên gia về văn học Anh và đã giảng dạy ở trường đại học Nam Kinh. Bà được nhiều người ngưỡng mộ, và đã nhận được giải thưởng Pulitzer à giải Nobel năm 1938. Cấu tạo của con thuyền trên con tem này được mô phỏng lại trong tiểu thuyết “Hành tinh hoàn hảo” của bà.

hienthuong
17-01-2009, 10:43
Những con thuyền của Brunel 27157


27158 27159Isambard Kingdom Brunel, người nước Anh (1806-1895) là một kĩ sư thiên tài trong lĩnh vực đường sắt miền Tây (GWR). Ông đã chế tạo ra những trang thiết bị cho trục đường ray, nhà ga, đường hầm, cầu, cảng… Ông còn xây dựng cả một bệnh viện 1000 giường bệnh trong chiến tranh ở Crimean, và cũng đã xây dựng được 3 con tàu nổi tiếng. Một số tem tưởng niệm và các sản phẩm của bưu điện được phát hành nhằm kỉ niệm sinh nhật lần thứ 200 của ông.



27160

Ba bản tóm tắt trong một tác phẩm uy tín của nước Anh xuất bản năm 2006 đã đưa ra một sự so sánh khá sát. Từ trái sang phải, chúng ta có thể thấy tàu chạy bằng hơi nước với guồng bánh là “Great Western”, tàu hơi nước do thủy thủ lái “Great Britain”,và tàu động cơ lớn “Great Eastern”.


27161
Con tàu đầu tiên của ông được chế tạo có thêm khoang đốt gỗ. Sau đó, bạn có thể nhìn trên tem, sau đó một thanh ngang bằng sắt được gắn thêm vào bằng đinh tán đã trở thành nguyên liệu xây dựng rất được ưa chuộng của Brunel. Những thanh sắt này giúp cho tàu Great Britain tồn tại hơn 160 năm cho đến tận ngày nay. Tuy nhiên, những thanh ngang bằng thép lại khiến cho tàu Great Eastern bị vỡ hai lần.


27162 27164 27163
Năm 1835 Brunel muốn hệ thống đường sắt Great Western mở rộng mạng lưới theo hướng tây, từ Bristol cho đến New york bằng một con tàu chạy bằng hơi nước. Các nhà chức trách đã đồng ý. Vì vậy con tàu Great Western bắt đầu được xây dựng từ năm 1837, ở xưởng tàu William Patterson.

Một số thống kê sau:



Dài*Rộng*Cao tương ứng là 71,9m * 10,7 m * 5,1 m

Tải trọng 1340 tấn, 2300net

Hai động cơ hơi nước với áp suất 225 HP mỗi cái

Hai vòng bánh lái, 4 cột buồm với nhiều cánh buồm phụ

Tốc độ khoảng 8.5 đến 9 hải lí một giờ

Tầng 1 chứa khoảng 128 khách, tầng 2 khoảng 20 khách

Thủy thủ là 57 người


27170
Trong suốt chuyến chạy thử đầu tiên, người thợ chạy động cơ hơi nước đã đốt nóng khung sắt quanh ống khói đến nỗi thuyền trưởng đã phải hạ lệnh cho tàu vào bãi cạn. Tuy nhiên, thiệt hại không đáng kể mấy và con thuyền đã được đẩy lên cao với đợt thủy triều tiếp theo. Chỉ có 7 hành khách dám thực hiện chuyến đi đầu tiên với chiếc thuyền đó qua Đại Tây Dương. Rất nhiều người khác sợ hãi với phương thức vận chuyển mới này. Chuyến đi đầu tiên này còn trở thành cuộc đua trên đại dương giữa “Great Western và chiếc thuyền nhỏ hơn là Sirius, cùng lúc đó là cuộc đua về động cơ hơi nước giữa các công ty hàng hải Anh và Mĩ. Con tàu Great Western đã giành chiến thắng với tốc độ trung bình là 8 hải lí một giờ và về đích nhanh hơn 3 ngày so với Sirius. Mặc dù không ai nói về Blue Riband vào thời điểm đó, nhưng Great Western đã trở thành con tàu nhanh nhất trong hành trình qua Bắc Đại Tây Dương.


27166

Trong suốt 8 năm sau đó, Great Western đã có 67 chuyến đi lại giữa Bristol hoặc Liverpool và New York, thường xuyên và rất ổn định, với mỗi chuyến đi trung bình là 12 đến 15 ngày.. Vào năm 1846, con thuyền được bán cho công ty Royal Steam Packet. Năm 1855, chính quyền Anh yêu cầu giao lại con thuyền và sử dụng cho việc chuyên chở lính trong chiến tranh Crimean. Năm 1856/57, con thuyền đã bị hỏng.

Bức thư này đã được chuyển ra nước ngoài năm 1842, với con tem về Great Western từ Liverpool và Bristol đến New York, Paid at Liverpool giá 8 pence và 6 cent, phí vận chuyển ở New York.Trên bản viết tay, số 8 và 6 phát hiện phía trên địa chỉ .

còn tiếp...

hienthuong
19-01-2009, 11:42
27511
Vào năm 1839, con tàu Great Britain được xây dựng giống con tàu bánh hơi nước Mammoth. Nhưng ngược lại với thành công của con tàu động cơ hơi nước Archimedes, Brunel đã thay đổi hoàn toàn kế hoạch xây dựng. Con tàu biến thành thuyền vượt đại dương đầu tiên với động cơ đẩy hơi nước, và là con thuyền đầu tiên vượt Đại Tây Dương mà được chế tạo bằng kim loại. Những cải tiến khác của con thuyền là vách xà ngang ngăn khoang không thấm nước, đáy kép, và bánh lái thăng bằng. Nó được đổi lại tên thành Great Britain .

27512
Một số dữ liệu sau:

*Xưởng chế tạo: William Patterson, Bristol

* Năm 1839, nó được lắp đặt giống xà lan vận chuyển ở Great Western

* Năm 1843 thì …floating-out (em không hiểu lắm chỗ này)

*Dài- B – Cao= 86.9m – 15.4m – 5.5 m

*LOA: 98.2m

*3443 BRT, 1016NRT

*hai động cơ hơi nước, công suất 2000HP

* Một chân vịt đẩy đường kính 4.7m với 6 cánh.



*6 cột buồm với những cánh buồm phụ

*Tốc độ trung bình là 8.5 đến 12 hải lí một giờ

*Tầng một chứa khoảng 360 khách

*Thủy thủ đoàn là 130 người.


27513 27514
Vào tháng 6 năm 1845, Great Britain đã thực hiện chuyến đi đầu tiên từ Liverpool đến New York trong thời gian 15 ngày. Trong những chuyến đi tiếp theo, đã có những sự việc bất ngờ xảy ra: trong một trận bão, một cột buồm bị gãy, chân vịt đẩy bị long ra, vào năm 1846, trong chuyến đi thứ 5, nó bị mắc cạn ở vịnh Dundrum, gần Belfast. Khoảng 1 năm sau đó, nó bị thanh lí và sau đó thì được bán cho Gibbs &Bright vào năm 1850. Con tàu được sửa lại thành tàu 4 cột buồm, với hai ống khói chia đều 2 bên, động cơ được thay thế, nội thất bên trong cũng được thiết kế lại hiện đại.


27515
Năm 1852, nó thực hiện chuyến đi đầu tiên từ Liverpool đên Melbourne và Sydney với 636 người di cư và toàn bộ hàng hóa. Năm 1853, nó lại được sửa lại từ thuyền 4 cột buồm thành thuyền 3 cột buồm với 1 ống khói.


27516 27517
Đến năm 1875 Great Britain đã thực hiện 32 chuyến đi đến Australia, và trở thành con tàu đi nhanh nhất với 54 ngày. Trong giai đoạn Great Britain được sử dụng để chở lính, 1855/56 trong chiến tranh Crimean và 1857/58 trong cuộc nổi loạn của Ấn Độ. Con tàu sau đó có một vài lần sửa lại nội thất, và trải qua nhiều đời chủ sở hữu. Từ năm 1882, nó là con tàu 3 cột buồm, phục vụ cho ngành thương mại San Francisco , Hoa Kì. Một số trận bão đã phá hủy Cape Horn vào năm 1886, con tàu đã phải đề nghị được trú nhờ ở cảng Stanley ở Falklands , nơi mà nó đã bị biến thành kho chứa len và than. Năm 1937, Great Brittain được kéo đến Sparrow Cove và chỉ hoạt động trong khu vực đó.


27518 27519
Mạn tàu bằng kim loại cứng của con tàu và đế kép đã giúp nó tồn tại cho đến ngày nay. Vào những năm 1960, một kiến trúc sư hải quân người Anh là Ewan Corlett đã công bố một bản vẽ về con tàu bị hỏng gây sự chú ý lớn, cùng với rất nhiều bằng chứng lịch sử. Ông đã tìm thấy “Dự án chế tạo SS Great Britain”, dự án đã tạo được nguồn quỹ để cứu chính con tàu đó. Năm 1970, mạn tàu va vào cầu phao (xem con tem bên trên), và được kéo đến Bristol . Vì vậy, Great Britain đã quay trở lại quê hương nơi nó được xây dựng 125 năm trước, tại Great Western Drydock . Con tàu đã được tu sửa lại so với nguyên bản của thế kỉ 19, và ngày nay nó được trưng bày ở bảo tang hàng hải.


27520
Bức thư có con tem “Chuyến hành trình đầu tiên của Great Britain từ Liverpool đến New York năm 1845” có giá trị là 8 pence theo giá bưu điện ở Liverpool và thêm 6 cent phí vận chuyển ở New York.


27521
Great Britain là kiệt tác lớn của kĩ sư Isambard Kingdom Brunel. Nó không chỉ là con tàu lớn nhất trong kỉ nguyên đó, mà còn tiếp tục duy trì kỉ lục trong suốt 5 thập kỉ tiếp theo. Kích thước của nó thật sự là khổng lồ. Great Eastern – tên ban đầu của nó là Leviathan, được chế tạo nhằm chuyên chở hành khách và những người di cư đến Australia , và phục vụ vận chuyển binh lính. Nó được thiết kế với các khoang hàng rộng, có khoang dự trữ than đủ cho những chuyến đi dài ngày, chở các loại hàng hiếm có và đắt đỏ tại thời điểm đó. Nó dành được sự ưu ái hơn các loại thuyền có tốc độ cao thời bấy giờ trong ngành thương nghiệp của Australia .

27522
Một số thong số kĩ thuật như sau:

Xây dựng tại Scott, Russel và Co, trên sông Thames ở Millwall

Sống thuyền chế tạo năm 1854, hạ thủy năm 1858, sau một số lần không thành công.
27523
Dài-rộng-sâu: 211m, 36m (qua cả hộp chèo), 9.2m với chiều cao mạn thuyền lên đến 18 m.

Trọng lượng 18915 tấn, chở hàng lên đến 27859 tấn

Đáy kép, mạn kép, có 9 buồng ngăn ngang



Động cơ 4900 mã lực, chân vịt đơn dài 24 feet



Bánh chèo 3400 mã lực, đường kính 58 feet



Có 5 ống khói, 6 cột buồm với 5000 m vuông diện tích cánh buồm

Tốc độ trung bình là 14 hải lí một giờ

Các tầng 1,2,3 chứa được số khách tương ứng là 800/2000/1200 người

Thủy thủ đoàn là 400 người.

27524

còn tiếp....

hienthuong
01-02-2009, 10:40
...tiếp theo....

28912 28913
Từ khi lên kế hoạch năm 1851 cho đến lúc hạ thủy năm 1858, các điều rủi ro cứ nối tiếp xảy ra. Công nhân ngã khỏi giàn giáo và tử vong, thợ tán đinh và phụ tá biến mất không dấu vết. Những năm sau đó, khi con tàu bị phá hỏng, người ta tìm thấy xương người ở giữa hai lớp đáy của thuyền. Đó là cái giá phải trả, và họ dừng việc xây dựng tiếp, thanh khoản tài chính trở nên chậm trễ. Việc hạ thủy bị gác sang một bên do chiều dài quá khổ của con tàu, và kết thúc những chuỗi điều không may bằng sự kiện mạn tàu bị thủng.

Cuối cùng, sau rất nhiều điều không may, con tàu cũng được hạ thủy an toàn. Công ty Eastern Steam Navigation bị phá sản và phải bán những con tàu chưa hoàn thành xong cho một công ty mới thành lập là Great Ship. Tên ban đầu Leviathan đã được đổi thành Great Eastern. Một đầu nồi hơi của con tàu đã bị nổ trong chuyến đi đầu tiên, kết quả là 6 kĩ sư thiệt mạng, và rất nhiều người bị thương. Chiếc xuồng chở thuyền trưởng vào bờ bị lật úp. Thuyền trưởng, người lái xuồng và phụ tá bị chết đuối. Tất cả những chuyện đã xảy ra trong chuyến đi biển đầu tiên của nó bị coi là điềm xấu.


28914
Mối quan hệ của Brunel và hãng đóng tàu Russel trong suốt quá trình xây dựng con tàu có rất nhiều căng thẳng, bao gồm cả vấn đề tài chính, những vấn đề trong xây dựng, và cả việc hãng Russel phớt lờ lời chỉ dẫn của Brunel. Sau đó, hãng Russel lại đổ hết trách nhiệm về những rủi ro lên đầu Brunel. Isambard Kingdom ngã bệnh và phải chịu một cú đột quỵ ghê gớm. Ông không thể tham gia vào vụ xét xử và cuối cùng mất ngày 15 tháng 9 năm 1859.


28915
Những điều rủi ro tiếp tục ập lên con thuyền. Trong chuyến đi đầu tiên đến New York, nó chỉ có 38 hành khách chịu trả tiền, trong khi số phòng lên đến 4000 phòng. Đó là một vụ thua lỗ tài chính khủng khiếp.

Một đường ống nước bị nổ trên đường con tàu trở về nhà đã phá hủy một lượng lớn hàng dự trữ. Ống thông hơi phòng lái bị vỡ, sau đó Great Eastern còn va chạm với một chiếc tàu khác. Những điều này xảy ra trong suốt 4 năm vận chuyển hành khách, và một lần chở binh lính đến Canada . Năm 1862, nó bị mắc cạn bởi một dải đá ngầm ở đảo Long. Đáy kép của con tàu đã kíu nó khỏi nguy cơ bị chìm. Nó được trục vớt và được bán năm 1864, rồi được chuyển thành trung tâm điện báo với vùng phủ sóng là 2000 dặm từ Ireland đến Newfoundland .


28916
Năm 1867, Great Eastern được một công ty của Pháp thuê làm tàu vận chuyển khách từ New York đến Brest dự triển lãm thế giời về Paris . Tuy nhiên, chỉ có 191 hành khách tham gia chuyến đi và chuyến đi mạo hiểm đó kết thúc với sự thất thu tài chính. Jules Verne đã ra nước ngoài và sau đó viết trong tiểu thuyết của mình là “Thành phố trôi nổi”.
Giữa năm 1869 và 1875, con tàu nhận nhiệm vụ đặt thêm một số cáp ngầm trên biển Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương. Sau đó, con tàu liên tiếp bị đem gia bán đấu giá giữa những người chủ sau nó.

Năm 1886, con tàu kim loại Great Eastern trở thành vật dụng vô ích trong World’Fair tại Liverpool , thêm một lần phí phạm tiền của. Sau đó, con tàu khổng lồ này không được sử dụng thêm một lần nào nữa. Có rất nhiều những con tàu được xây dựng nhằm mục đích đặt dây cáp ngầm dưới biển, chuyên chở hành khách với tốc độ cao, và khai thông dọc kênh đào Suez . Nhưng con tàu khác thường này không may mắn khi gắn biểu tượng “voi trắng” (bạch tượng) ở mũi thuyền, và nó đã bị đập vụn vào năm 1889/90.

hienthuong
04-02-2009, 11:07
Chủ đề hàng hải trên tem.



Erik Đỏ và con trai Leif



29242
Erik the Red và hành trình đến Thanh Đảo

Bài viết này tổng hợp lại những chuyến hành trình vượt Đại Tây Dương của hội cướp biển đến quần đảo Faeroe , Iceland , Greenland và Newfoundland . Đoàn thuyền được dẫn dắt bởi Erik và sau đó là con trai Leif Erikson, đoàn cướp biển đã bơi đến những bờ biển chưa ai khám phá, phát hiện ra chúng và thậm chí còn định cư ở đó.




29243 29244
Những cuộc xâm chiếm và chinh phục của đoàn cướp biển chỉ xung quanh khu vực bờ biển Châu Âu. Những chuyến đi đầu tiên của họ vượt Đại Tây Dương với nhiều lí do khác thúc đẩy ,.....
Cuộc sống hàng ngày của họ phải đối mặt với những kẻ giết người, những món nợ máu, và cả những thử thách chết choc. Mặt khác, họ phải tuân thủ những luật lệ vô cùng hà khắc được ban bố bởi một hội đồng cướp biển là Thing. Những hình phạt phổ biến là bị trục xuất, xua đuổi khỏi đoàn. Tội ác thì bị bắt buộc phải rời bỏ đất nước. Vì vậy họ đã vượt biển và đến định cư trên quần đảo Faeroe , Iceland và Greenland .




29245 29246
Đoàn cướp biển đã vượt Đại Tây Dương với những con thuyền dài như mô tả trên con tem bên trái. Những chiếc thuyền đó có 40 đến 60 mái chèo. Độ dài ước lượng khoảng 100 ft, rộng 20 ft, và thành tàu dày 3 ft. Cột buồm cao xấp xỉ 30 ft, cánh buồm trải rộng đến 50 ft. Nhưng con thuyền này có thể đạt vận tốc 11 hải lí một giờ khi không căng buồm,

Người Na Uy còn có bằng chứng cho thấy tốc độ có thể đạt đến 20 hải lí. Đáy thuyền nông cho phép chúng đi vào những vùng sông, cửa biển mà không sâu lắm, những chiếc thuyền dễ dàng được đẩy lên khu đất khô và quận lại như những thuyền bằng thân gỗ. Phía trên bên trái là hành trình của họ, bên cạnh là con thuyền trong một trận bão ở Đại Tây Dương.




29247
Những đoàn cướp biển bị trục xuất và gia đình của họ đã tìm thấy khu vực định cư như đã mô tả trên những con tem trên, họ bắt đầu với nền nông nghiệp và chăn nuôi gia súc. Thêm vào đó, họ còn sinh sống dựa vào đánh bắt cá và buôn bán vượt Đại Tây Dương.


29248
Làm thế nào những tên cướp biển có thể vượt Đại Tây Dương? Con thuyền cướp biển Raven Floki có được cái tên đó là do một lần nó chở theo 3 con quạ trong khi đang lần tìm đường tới Iceland . Một ngày sau khi rời Faeroes, nó đã thả đi con quạ đầu tiên, và con chim đã bay về phía Faeroes. Vào ngày thứ hai, chiếc thuyền thả tiếp con quạ thứ hai, nó đã bay lên trên nhưng sau đó lại quay trở lại thuyền. Khi ngày thứ ba đến, con thuyền thả tiếp con quạ cuối cùng, con chim bay theo hướng Tây Bắc, Floki đã lái theo hướng đó và cuối cùng tìm ra Iceland .


29249
Thiết bị đinh vị hướng đi dựa theo hướng mặt trời lặn (hướng tây) hoặc mặt trời mọc (hướng đông) và đánh dấu bằng một chấm. Bóng mặt trời hạ xuống sẽ được đánh dấu bằng các ô hoặc chấm đồng tâm tạo thành một vòng tròn. Các vị trí đánh dấu này có thể được điều chỉnh khớp với bóng trên ô vuông đó.

Độ dài của bóng nắng được sử dụng để xác định vĩ độ, và đặt các mốc theo đó. Đá mặt trời là hợp chất Silica. Khi di chuyển sang góc phải của mặt trời, những viên đá Crystal màu vàng chuyển thành màu xanh xám. Điều ngạc nhiên là những thiết bị này còn hoạt động được cả trong sương mù và ngoài vũ trụ. Tất cả đoàn cướp biển phải chọn nơi định cư theo hướng chỉ đá mặt trời khi nó có màu xanh.




29250 29251 29252
Đoàn cướp biển bắt đầu định cư ở Iceland với người đứng đầu là Ingolf Arnarson vào năm 874. Trên những con tem này, chúng ta có thể nhìn thấy chiếc thuyền mà họ đã dung. Ở phía mũi tàu, một số người đang ném những cột trụ của các ghế cao qua thành tàu. Điều đó giống như một tục lệ vậy. Chỗ nào những vật đó giạt vào thì đó cũng chính là nơi họ sẽ định cư. Họ đã làm như vậy tại Vịnh khói Reykjavik . Khoảng 150 năm sau, dân số ước tính lên đến 60000 người tại đảo Iceland .



29253
Erik Đỏ (Erikur Raudi) sống vào khoảng từ năm 950 đến năm 1003. Ông ta sinh ra ở Na uy và có tên là Erikur Thorvaldsson. Vao năm 970, bố của ông phải rời bỏ quê hương vì bị buộc tội sát nhân. Vì vậy ông đã gia nhập đội cướp biển trên Iceland . Eri là tên ,còn biệt hiệu Đỏ được gắn với tên ông vì mái tóc và bộ ria màu đỏ của ông, và còn vì lí do ông có xăm dòng chữ nợ máu được trả bằng máu trên cánh tay. Vợ ông ta Tjodhild đã nói về chồng mình như sau: Sự kiêu hãnh của ông ấy làm tăng giá trị cuộc sống của ông ấy, thêm vào đó, ông ấy còn là người cần cù và rất kiên nhẫn. Tôi chưa từng biết đến một ai hơn ông ấy. Ông ấy luôn đối xử trìu mến với tôi và thậm chí còn làm nghề nông rất giỏi”.




29254 29255
Erik rất hiếu chiến và thường giải quyết vấn đề theo cách riêng của mình. Trong những cuộc tranh chấp về các vùng đồng cỏ, ông ta đã giết chết hai người hàng xóm , bị kết án 3 năm cấm cố, và bị trục xuất khỏi vùng đó. Vào năm 875 Gummbjoern Ulfsson đã khai phá rộng vùng đất về phía tây Iceland .

Điều này không đem lại nhiều hi vọng cho ông ta vì cái ông ta thấy chỉ là những tảng băng nổi, sương mù và những ngọn núi phủ đầy tuyết. Những người Iceland đã đặt tên vùng đất đó là Gumbjoernschaere.
Năm 982, Erik đã nhập hội cùng với 32 người khác và bơi thuyền đến thám hiểm mảnh đất này. Ở đó, họ khám phá ra bờ biển với những thung lũng xanh tươi, các loài gấu, hải cẩu, những dòng sông đầy ắp cá. Ông đã đặt tên vùng đất đó là Greenland (xem con tem bên trái), đồng thời thuyết phục những người Iceland đến sống ở đó.




29256 29257
Sau 3 năm bị trừng phạt, Erik Đỏ quay trở về Iceland . Ở đó, ông đã chiêu mộ thêm nhiều người cho “miền đất xanh” của mình, thuyết phục dòng họ chuyển đến sinh sống nơi mãnh đất mới là Greenland hơn là sống một cuộc sống thiếu thốn ở Iceland .

Con tem của Monaco in năm 1982 dành để kỉ niệm 1000 năm Erik Đỏ khám phá ra vùng đất Greenland .



29258
Năm 985, Erik đến Greenland với 25 con thuyền. Họ gặp phải một số cơn bão lớn và va chạm với những tảng băng trôi. Những con sóng thần đã cuốn những người trên thuyền xuống biển. Cuối cùng chỉ còn 14 chiếc thuyền với khoảng 700 người là đến vùng đất an toàn.



29259
Họ tìm thấy hai khu vực thuận tiện cho việc định cư là Austbygd và Vestbygd. Erik đã xây dựng trang trại Brattahild của mình ở khu Austbygd. Trên các con tem, theo thứ tự từ trái sang phải là con thuyền của đoàn người, một người đàn ông với tảng gỗ trôi giạt, một đầu mũi tên và một đồng xu, và nhà thờ của Tjodhildes, vợ của Erik. Những bức tường móng của nhà thờ này vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Trong suốt thế kỉ thứ 9 những nhà truyền giáo đã làm thay đổi tư tưởng của rất nhiều người thuộc khu Bắc Âu, nhưng Erik Đỏ vẫn giữ vững niềm trung thành với vị chúa của mình trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên vợ và các con ông lại gia nhập Cơ đốc giáo. Họ thậm chí còn có cả giám mục trong suốt thời gian sống ở Greenland .

Ngày càng có thêm những cư dân mới đến và dân số nhanh chóng tăng lên 3000 người. Họ đặt vấn đề thương mại với Iceland và Châu Âu về lông và ngà của các loài thú để đổi lại thóc lúa, kim loại và muối. Khí hậu của Greenland không phù hợp với trồng lúa gạo. Năm 1002, vùng đất này phải chịu một trận đại dịch. Bệnh tật cướp đi sinh mạng nhiều người, Erik Đỏ cũng nằm trong số những người xấu số, ông mất năm 1003.

hienthuong
09-02-2009, 09:46
29653
Erik Đỏ có 4 người con. Người con trai thứ hai là Leif Eriksson sinh năm 970. Mọi người cho rằng anh ta mất năm 1020. Anh là được coi là người Châu Âu đầu tiên đặt chân lên vùng Bắc Mĩ. Có thông tin cho rằng những người Iceland thậm chí đã đến Bắc Mĩ vào năm 985.

Trong truyền thuyết của Greenland có kể đến Bjarni Herjolfsson như một anh hùng khám phá ra lục địa Mỹ. Ông có ý định bơi thuyền từ Iceland đến Greenland nhưng những trận bão đã cuốn mất ông ta năm 986. Mọi người kể rằng Bjarni Herlufsson đã chú ý đến một vùng bờ biển khá bằng phẳng với những ngọn đồi thấp, những cánh rừng vô tận và không hề có một chút băng tuyết hay sông băng nào.



29654

Trong tài liệu của Adam of Bremen viết năm 1076 có kể về chuyến cập bến Bắc Mĩ của Leif Eriksson năm 1000 (hoặc năm 1001). Điều này được rất nhiều học giả tin tưởng. Có một lí do chấp nhận được việc Leif muốn tìm ra vùng đất này, anh ta nói anh ta phải mua thuyền của Bjarni, sau đó thực hiện hành trình theo hướng tây nam cùng với 36 người khác nữa.




29655
Bố anh ta, Erik Đỏ đã chờ để nhập đoàn cùng với anh ta nhưng sau đó ông bị ngã ngựa và bị thương ở chân. Vì nghĩ rằng đó có thể là một điềm báo không may nên ông quyết định ở nhà. Đầu tiên, Leif đến Labrador , nơi anh ta gọi là vùng đất đá. Sau đó anh ta đến Newfoundland và đặt tên vùng đó là vùng rừng.






29656 29657
Sau đó, anh ta tiếp tục bơi dọc bờ biển và gần như đạt được tới khu Cap Cod gần Boston . Ở đó, đoàn thuyền tìm thấy những đồng cỏ màu mỡ, những cánh rừng bạt ngàn, và những dòng sông đầy cá. Họ đã cập bến lên bờ và gọi đất nước đó là Vinland , vùng đất đó sau này đổi tên thành Leifsbudir. Tại đây, đoàn người đã tìm ra vùng đất để định cư lâu dài sau này.



29658
Cho đến ngày nay, lãnh địa chính xác của Vinland vẫn còn nằm trong bí mật. Vin có thể có nghĩa là rượu, khi nó nhấn vào chữ “i”, tuy nhiên nếu không có trọng âm trong từ đó, thì nó lại mang nghĩa đồng cỏ. Chỉ có những loài dâu dại, người ta không trồng một loại nho nào ở các vùng thuộc vĩ độ bắc, do vậy từ Vinland ngày nay có thể được hiểu là miền đất của những đồng cỏ.



29659 29660
Anh em của Leif là Thorwald đã đi thuyền đến Vinland và định cư ở đó, những đoàn thuyền người khác cũng lần lượt làm theo. Cuối cùng, đoàn thuyền đó còn mở mang thêm một số vùng định cư mới ở Newfoundland ( Vào năm 1961, một khu đất được khai quật với những di tích thời đó và được công bố là di sản văn hóa thế giới).
Lúc đầu họ giao dịch với những người bản địa cũng rất thuận lợi. Sau đó vì những xung đột nên xảy ra chiến tranh với người bản địa . Thorwald đã tử trận vì bị một trận mưa tên.

Năm 1009 đoàn thuyền Karlsefnis đã đến định cư ở Vinland . Anh ta kết hôn với con gái của Erik Đỏ là Freydis. Anh ta phải chiến đấu trong nhiều trận xung đột với người bản địa, thậm chí Freydis còn phải cầm gươm chiến đấu và đe dọa những người bản địa. Họ gọi người bản địa là Skraelinge (nhát gan và yếu ớt). Tuy nhiên thì việc định cư này cuối cùng cũng bị dẹp bỏ.



29661 29662
Trong nhiều năm, nền thương mại cởi mở đã giúp những người định cư ở Greenland giao thương với Bắc Mĩ. Người dân châu Mĩ cung cấp những nguyên vật liệu quan trọng cho họ như gỗ, da thú, lông thú, các loại mỡ động vật. Những quan hệ giao thương này vẫn tiếp tục tốt đẹp cho đến thế kỉ 14. Sau đó, đoàn thuyền cướp biển biến mất khỏi cả hai khu vực này
. Không ai biêt điều gì đã xảy ra. Họ đã đi về đâu ???


29663

Với người Châu Âu, Columbus mới là người khám phá ra Châu Mĩ vào năm 1492!


29664
Năm 1938 người ta hoàn thành xong tượng đài kỉ niệm Leif Eriksson ở Reykjavik .


Trang tham khảo thêm về hành trình của người Viking..http://www.vietstamp.net/forum/showthread.php?t=35

hienthuong
26-02-2009, 08:26
30968
Vụ chìm tàu Pamir



30969

Dữ liệu về thiết kế con tàu Pamir

-Được chế tạo năm 1905 bởi hãng tàu Blohm & Voss tại Hamburg

-Năm 1951 được tu sửa lại, trang bị thêm động cơ 900PS

-Chiều dài: 114,5m, chiều rộng 14,1m

-Mạn bằng thép

- Boong tàu bằng thép, có 4 cột buồm thép

-Trang thiết bị hiện đại như thuyền 4 cột chính, mỗi cột 3 lá buồm

-Cột buồm chính trên boong tàu cao 51,2m

-Tổng tải trọng sau khi đại tu là 3.102,87 tấn

-Trọng lượng tịnh là 2.509,27 tấn

-Khối lượng hàng tối đa 4.106

- Có 32 lá buồm với tổng diện tích là 3600m2

-Tốc độ tối đa khi hạ buồm là từ 13.5 đến 16 hải lí/giờ

-Thủy thủ: 33 người, có lúc con số này tăng kỉ lục đến 86 người

-Năm 1957, cơn bão Carrie đã làm con tàu chìm tại vùng biển phía nam Azoren



30970
Vào ngày 18 tháng 10 năm 1905, hãng đóng tàu F. Laeisz đã được ủy nhiệm đóng con tàu Pamir . Con tàu được giao nhiệm vụ vận chuyển nitơ và kali đến Nam Mĩ,và quanh khu vực Cape Horn được 18 lần. Khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, con tàu không thể đến Đức an toàn, và còn vì lí do nó bị gãy mỏ neo khi qua vịnh Santa Cruz . Chỉ một lần duy nhất vào năm 1921, chất Kali được cho phép bốc dỡ tại Hamburg, nên con tàu mới có cơ hội quay lại Italia và được tu sửa từng phần tại đó. Tuy nhiên Italia lại không có thợ máy để vận hành con tàu lớn như vậy nên Pamir lại được chuyển đến Golf ò Naples .



30971
Vào năm 1924 công ty đóng tàu Laeisz đã mua lại thành công tàu Pamir với giá 7000 pounds Sterling. Nó lại được trưng dụng lại vào việc vận chuyển kali đến Nam Mĩ. Tuy nhiên ngành công nghiệp này không mang lại nhiều lợi nhuận sau này vì người Châu Âu đã tự sản xuất thành công phân bón hóa học nitơ. Năm 1931, Pamir đã bị bán cho chủ hãng tàu người Phần Lan là Erikson.

Giờ đây con tàu được dùng để vận chuyển lúa mì từ Úc đến Châu âu. Tàu Pamir đã tham gia vào 7 cuộc đua chở lúa mì và giành chiến thắng trong cuộc đua năm 1932. Khi đại chiến thế giới thứ 2 bùng nổ, con tàu lại bị đẩy đến Thụy điển bỏ không, sau đó năm 1940, nó được hiến tặng cho Argentina và dùng để vận chuyển phân bón giữa Seychelles và New Zealand .
Năm 1942, nó bị tịch thu sung công ở New Zealand và sau đó được sử dụng dưới lá cờ Hà Lan cho đến tận năm 1948. Thời gian này nó đã thực hiện những chuyến hành trình đến Mĩ, và vận chuyển len từ New Zealand đến vương quốc Anh.


30972
Năm 1948 tàu Pamir lại được trả lại cho ông chủ người Phần Lan, và nó đã thực hiện một số chuyến chở hàng len, sau đó nó được chỉ để chứa hàng ở Penarth, Wales. Năm 1950 một công ty của Bỉ đã mua con tàu này cùng với con tàu được sản xuất cùng thời là Passat. Nhưng dường như ngay sau đó thì ông chủ hãng tàu Schliewen đã mua lại cả hai con tàu vào năm 1951 và đã tu sửa lại chúng thành tàu huấn luyện. Tuy nhiên sau đó ông chủ này vướng vào rắc rối tài chính vì vậy 40 chủ tàu người Đức đã thiết lập nên hệ thống “Stiftung Pamir và Passat”, và đã lấy chở luôn hai con tàu đi. Chúng dùng vận chuyển lúa mì qua lại giữa Buenó Aires và Hamburg , nhưng nó vẫn được dùng chủ yếu cho mục đích huấn luyện trong quân đội mỗi lần khoảng 50 lính .


30973
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1957, tàu Pamir đến vùng biển quê hương trong chuyến đi từ Buenos Aires đến Hamburg . Trong 4 khoang lớn và rất sâu của mình, nó chở theo rất nhiều lúa mì, sau đó chỗ lúa mì đó được đóng một phần vào bao tải và phủ lên trên. Con tàu này để các khoang bên dưới boong tàu, như vậy sẽ tránh được hàng hóa bị mất mát hoặc bị xê dịch.
Vào thời điểm tàu Pamir dỡ hàng thì những công nhân tại cảng lại tiến hành đình công, vì vậy các nhân viên trên tàu Pamir đã phải nhờ đến những người học việc sắp xếp lại hàng hóa. Điều đó đồng nghĩa với việc những bao lúa mạch có thể bị cắt bung bởi cạnh sắc của tàu và bị rơi vãi một lượng lớn, gây mất mát và hao hụt .


30974 30975
Trên Đại Tây Dương hoặc vùng biển Caribe, những cơn lốc nhiệt đới hình thành được gọi là bão nhiệt đới. Theo thống kê một cơn bão thường sẽ trở thành bão nhiệt đới, khi gió của nó đạt tới tốc độ cấp 12.
Bên ngoài đại dương, những cơn bão nhiệt đới sẽ luôn di chuyển với tốc độ lớn hơn 120km/giò, kèm theo gió mạnh và mưa rào, nó có thể lên đến tốc độ 200km/ giờ hoặc nghiêm trọng hơn, gọi là siêu bão.

Trên hai con tem này, bạn có thể thấy hình ảnh những đám mây ở phía bên trái, còn phía bên phải là những hoạt động để chống đỡ lại cơn bão như vậy. Năm 1957 tàu Pamir đi vào tâm của bão Carrie, nó đã bị lật và chìm. Tất cả 80 thủy thủ trong số 86 người đã thiệt mạng, chỉ có 6 người may mắn được cứu thoát.



30976 30977
Vì không một ai trong số nhân viên điều khiển trên tàu sống sót sau đó nên không ai biết con tàu này đã bị cơn bão Carrie đánh chìm như thế nào, và tại sao nó lại đi con đường chết chóc vào mắt bão như vậy.]
Theo những lời khai của những người sống sót, thì có thể là do quá nhiều buồm căng lên trên mặt thuyền, và nó vẫn không được hạ xuống cho đến tận lúc con thuyền bị lật. Có thể thuyền trưởng đã cố gắng điều khiển tàu đi ra xa và mong thoát khỏi cơn bão. Nhưng không may điều đó đã không thực hiện được, vì cơn bão đó không tuân theo những đặc điểm thời tiết bình thường, nó thay đổi hướng liên tục và cũng có thể là nó đuổi theo tàu Pamir .

Vào ngày 21 tháng 9 năm 1957, khoảng 9 giờ sáng, tàu Pamir đi vào tâm gió xoáy của bão Carrie. Vì áp lực tác động lên các lá buồm rất lớn, nên chúng rất dễ bị bẻ gãy. Những thủy thủ trên tàu đã cố gắng quăng hết các buồm nhỏ và dùng dao cắt đứt dây buồm khỏi sàn tàu. Tàu Pamir đã bị chìm ở phần đuôi và không thể lấy lại cân bằng, khi đó những lá buồm bị xẻ rách thành từng miếng nhỏ và bị thổi bay hết.




30978
Vận tốc gió lúc đó lên tới 130 km/giờ, và sóng biển cao từ 12 đến 14 m. Toàn bộ phần boong tàu gần như bị ngập nước, còn thành tàu thì bị nhấn xuống dưới những con sóng lớn. Vào khoảng 11 giờ, tàu Pamir gửi tín hiệu cấp cứu, và nó bị chìm phần đuôi tạo thành một góc 45 độ lúc đó. Nước đang nhấn dần vào các khoang. Vào khoảng từ 12 giờ đến 13 giờ thì nó bị lật, và với khoảng thời gian ngắn như vậy, nó đã bị nuốt vào giữa đám sóng nước hỗn loạn của cơn bão. Sau đó, mũi thuyền dựng đứng, quay theo tâm xoáy, những con thuyền trôi tự do khoảng 20 đến 30 phút. Khi nó chìm, một cột nước màu vàng bắn lên khỏi mũi thuyền và một tiếng còi lớn phát ra.


30979
Khi tàu Pamir vẫn căng buồm vượt qua làn nước một cách nhanh chóng tại vị trí nghiêng dốc, tất cả những thuyền cứu hộ ở mạn tàu đều bị giật khỏi tàu một cách dễ dàng và vỡ nát thành từng mảnh. Tàu vẫn tiếp tục tăng tốc chạy với động cơ bên mạn phải, nhưng không lâu sau đó thì những động cơ và thuyền cứu hộ bên mạn phải cũng bị đập nát và giật xuống biển. Tất cả thủy thủ trên tàu đều nhảy xuống biển khi tàu bị chìm, và họ cố gắng bơi thật xa khỏi tàu. Họ bám vào những mảng gỗ hoặc những mẩu trôi nổi xung quanh. Họ tụ lại thành từng nhóm, cùng giúp nhau vượt qua cơn bão đang gào rú.

Trong lúc nguy cấp đó thì việc cứu hộ được tiến hành, mọi người cố gắng mở rộng phạm vi tìm kiếm, cả nơi mà những mảnh vỡ trôi giạt. 78 con tàu từ 13 quốc gia và 11 máy bay đã tìm kiếm những người còn sống sót trong vòng 7 ngày.


30980 30981
Hai thuyền cứu hộ bị giật ra khỏi tàu, bị phá hủy nghiêm trọng và quăng xuống nước, ngập nước và một chiếc bị lật chìm. Trong hai chiếc thuyền, một chiếc chở 10 người, và chiếc kia chở 22 người. Trên thuyền, họ phải chịu những cơn khát khô cổ, họ phải uống nước biển rất mặn vì những thùng đựng nước ngọt đều bị sóng cuốn hết. Một số thủy thủ còn phải uống cả nước tiểu của mình, một số khác thì nhai những cây gậy cầm hơi. Một người trong số họ còn cố gắng cắt thịt mình ra và để những đồng đội uống máu của mình. Một vài người khác thì uống nước biển, họ bị ảo giác và ngã khỏi thuyền. Bởi vì cuối cùng thì thuyền cũng bị ngập đầy nước, các thủy thủ cứ ngồi trong nước cho đến khi nước dâng đến ngực, và họ bị tê cóng mặc dù nhiệt độ của nước là 28 độ C

Tất cả họ đều mong ngóng tàu cứu nạn hoặc là máy bay cứu hộ, nhưng họ chẳng nhìn thấy gì. Thời gian lặng lẽ trôi chầm chậm , Con thuyền gỗ bị ngập đầy nước vẫn gắng gượng bơi và cuối cùng nó không thể bơi nổi được. Họ đã dựng lên một cái cột, buộc những mảnh vải lên trên, mong người ta dễ dàng phát hiện ra họ , Nhưng cuối cùng tất cả đều kiệt sức và lần lượt từng người một chết. còn tiếp,..

hienthuong
01-03-2009, 21:51
... tiếp theo..
31284
Hai ngày sau khi tàu Pamir chìm, con thuyền chở 10 người cũng được một tàu chở hàng của Mỹ là Sax tìm thấy, lúc đó trên thuyền chỉ còn 5 người. Một ngày sau đó, những người sống sót cuối cùng trên con thuyền chở 22 người cũng được một tàu gác biển của Mỹ là Absecon tìm thấy. Những con tàu cứu hộ đã phát hiện được rất nhiều những mảnh vỡ nát và những mẩu quần áo trôi nổi, và cũng chỉ tìm thấy những mẩu xác người còn sót lại. 6 người sống sót kể lại rằng họ đã nhìn thấy rất nhiều cá mập xung quanh tàu của họ khi nó sắp chìm.
Vụ chìm tàu Pamir nguyên nhân chính là do một số lỗi rất cơ bản và thiếu sót nghiêm trọng. Hiệp hội hàng hải đã đưa ra những câu hỏi khá gay gắt cho thuyền trưởng và ông chủ sở hữu con tàu.



31285
Con tàu vẫn căng lên 1/3 diện tích buồm, trong khi tốc độ gió đạt 10 Beaufort và nó đã đẩy con tàu đi bằng áp lực lên mạn. Và trong một cơn bão mạnh như vậy, chắc chắn bạn phải đánh gãy một cột buồm sau khi muốn đi nhanh hơn, để tránh quá nhiều lực tác dụng vào mạn tàu.

Tiếp theo, các bao lúa mì được xếp thành các khu riêng, nó đã tạo nên những chỗ trống xung quanh các góc của khoang tàu. Chúng rất dễ trượt vào các chỗ trống đó, và khi con tàu di chuyển, chúng sẽ cộng hưởng tạo và làm cho con tàu di chuyển nhanh hơn khi gặp bão. Vì vậy những bao lúa mạch này làm tàu mất cân bằng, điều này có thể khiến tàu lắc lư, thậm chí khiến cho tàu tiếp tục bị nghiêng, ngay cả khi tất cả các lá buồm bị xé rách và cuốn bay.. Hiệp hội Hàng hải đã kết luận: vụ chìm tàu này là một tai nạn và nguyên nhân chủ yếu là do mất thăng bằng, thuyền chở hàng quá nặng nghiêng về một bên.

Tàu Pamir có một khoang khá sâu để tạo thăng bằng. Như vậy khi bị ngập, nước sẽ đổ về trung tâm của khoang theo định luật về lực hút của trái đất. Khoang đó phải được đóng lại để giữ nước cân bằng dọc trung tâm của mạn tàu. Và thực tế là khoang lớn của tàu đã đựng đầy những bao lúa mì nhẹ, vì vậy không thể dùng nước để lấp đầy những chỗ còn trống của tàu. Nếu khoang đó được đóng chặt lại thì không ai biết gì về nó cả.

Con tàu không được chuẩn bị một chút gì để đối phó với những cơn bão. Nói theo cách khác, con tàu hoàn toàn chịu trận khi một cơn bão tấn công nó.. Với tình trạng này, khi nó gặp bão, những cánh quạt chân vịt sẽ bị đánh bạt, thậm chí các đồ đạc trên tàu, thủy thủ, cửa, lỗ thông khí, cửa trần, ống hơi đều bị thổi bay. Các vách ngăn trên tàu cũng bị áp lực lớn.

Thuyền trưởng chỉ được thay thế khi mà ông ta không thể hòa nhập được với con tàu Pamir .

Hiệp hội hàng hải đã phủ nhận một cách dứt khoát khi gọi tai nạn đó là hành động của Chúa, và cho rằng tai nạn đó là không thể tránh khỏi.


31286
Các luật sư của những người bị nạn và các chuyên gia thì lại đưa ra những kết luận khác:

Mạn của con tàu đã bị phá hủy, và vì vậy nó càng ngày càng bị ngập sâu trong nước.

Lực phá hủy của cơn bão là vô cùng lớn và theo như thống kê của Hiệp hội hàng hải thì sức gió của nó ở mức cực kì khủng khiếp.

Bão Carrie đã rượt đuổi tàu Pamir rất điên cuồng, nó theo sát tàu Pamir với cấu trúc đường đi bất thường, cứ như là bị một thế lực điều khiển, và con tàu không còn đường thoát khỏi cơn bão.

Các luật sư cho rằng: thuyền trưởng cũng như các thủy thủ đã không lường trước được sự nguy hiểm của cơn bão từ trước và trong khi nó di chuyển, nó không tuân theo bất kì quy tắc khí tượng cũng như hàng hải nào, đặc biệt là khi chúng ta nghiên cứu số lượng buồm, mọi người đã cố gắng giương thật nhiều buồm để hi vọng thoát khỏi cơn bão.

Thông tin trong bài này chỉ có thể diễn tả lại hai quan điểm trái ngược nhau về vụ chìm tàu này. Những ai muốn tìm hiểu thêm thông tin chi tiết về vụ chìm tàu này, có thể tham khảo 2 cuốn sách và những thông tin trên Wikipedia, hoặc xem thêm phần dưới với những tiêu điểm được liệt kê.


31287
Chỉ một vài tuần sau khi xảy ra vụ chìm tàu Pamir, con tàu anh em của nó là Passat, xuất phát từ Montevideo , đã may mắn thoát khỏi một cơn bão lớn chỉ nhờ một bờ biển nhỏ. Nó cũng gặp phải một cơn bão nhiệt đới theo hướng Tây Nam ở Biscaya, nó phải chịu đựng tình trạng trôi tự do mất 4 ngày. Những bao lúa mạch mà nó vận chuyển không bị trượt nên nó không rơi vào tình trạng mất cân bằng. Khác với tàu Pamir , tàu Passat bị nước ngập vào các chỗ trống và nó tạo nên sự cân bằng trong khoang chứa hàng sâu đó.

Con tàu không bị lật, và đương nhiên là nó không bị chìm. Với độ nghiêm là 50-55 độ, nó đã giong buồm và tiến vào cảng Lisboa. Sau đó, nó sắp xếp lại các bao lúa mạch và lại tự mình bơi về tới cảng Hamburg .


31288
Có ý kiến cho rằng các thủy thủ trẻ phải được đào tạo đề phòng tình huống tàu đắm. Tàu Passat đã được sử dụng cho mục đích đào tạo các sĩ quan. Những chiếc áo cứu sinh Cork (xem con tem phía trên) được sử dụng trên tàu Pamir đã được thay thế, và chúng có thể giữ cho những người mặc nó được an toàn cả trong tư thế ngủ, với phần ngực và phần đầu được nâng lên khỏi mặt nước. Toàn bộ những vật dụng trên tàu cứu sinh, cách sử dụng chúng, cách hạ thủy các thuyền đó và điều khiển chúng trong những tình huống khó khăn đều được xem xét lại.



Nguồn tư liệu: 31289

J. Brennecke, K-O. Dummer, Viermastbark Pamir, ihr Schicksal im Zentrum des Hurrikans "Carrie", Koehlers Verlagsgesellschaft
H. Willner, Pamir, ihr Untergang und die Irrtümer des Seeamtes, Verlag E.S. Mittler
Wikipedia Internet Encyclopedia

Kênh truyền hình Trung ương Đức có phát sóng một bộ phim 2 tập về vụ chìm tàu Pamir tháng 11 năm 2006. Một trong số những người còn sống sót đã xác nhận, rằng bộ phim này không có một chi tiết nào là sự thật cả.

Với một vài người không có chút liên quan cá nhân nào đến việc này thì đó là điều không thể hiểu nổi, tại sao thuyền trưởng lại được mô tả lại một cách khó hiểu, giống như một thuyền trưởng bù nhìn cứng đầu, và một kẻ thất bại thảm hại, cả vợ và những người phụ nữ xung quanh cuộc đời ông ta. Đó là một cái nhìn không mấy thiện cảm về kí ức của một sự việc đã xảy ra trong quá khứ.

hienthuong
11-03-2009, 10:13
Sự khởi đầu của con thuyền động cơ hơi nước với những bánh chèo.


32044
Thuyền động cơ hơi nước của Thuỵ Điển Constitutionen được xây dựng năm 1822 tại Karlskrona, nó phục vụ cho việc vận chuyển thư từ.

Có một số sự kiện liên quan tới con thuyền động cơ hơi nước đầu tiên này:

-Vào năm 130 trước công nguyên, cuộc thí nghiệm đầu tiên xung quanh việc sử dụng động cơ hơi nước đã được tiến hành ở Alexandria, Ai Cập

- Năm 1690 một người Pháp là Papin đã đẩy thành công Pitttông chỉ dùng hơi nước. Vào năm 1707 ông ta đã chế tạo một con tàu với guồng chèo và đã thử nghiệm trên song Fulda.

Một người Anh là Jonâthn Hull đã phát triển tàu chạy bằng hơi nước và đăng kí bản quyền con tàu đầu tiên vào năm 1735.


32045 32046

Năm 1769, James Watt công bố bằng sáng chế cho động cơ hơi nước của mình.

-Từ năm 1772 đến 1774, Comte Joseph B d’Auxiron đã chế tạo một con tàu chạy bằng hơi nước. Trong lần chạy thử đầu tiên, nó đã bị chìm.

Năm 1775 Một người Pháp là J.C. Perrier đã chế tạo một con tàu chạy bằng hơi nước nhưng động cơ của nó không đủ mạnh để có thể đi ngược dòng sông Seine.

Từ năm 1778 đến năm 1783, Marquis Claude-Francois Dorothee Jouffroy d’ Abbans đã chế tạo 2 con tàu chạy bằng hơi nước. Tuy nhiên động cơ của con tàu đầu tiên của Perrier lại không đủ mạnh, và phải đến con tàu thứ hai thì nó mới trở thành con tàu hơi nước thành công nhất lúc đó. Tên của nó là Pyroscaphe, có chiều dài 45m. Trong chuyến chạy thử ngoài biển Lyon, nó đã dùng hơi nước bốc lên để chạy được 15 phút.

Năm 1787 một người Mỹ là James Rumsey đã đi ngược dòng sông Potomac với vận tốc 6.5 hải lí/giờ

Từ năm 1787 đến năm 1790, một người Mỹ khác là John Fitch và một người Đức nhập cư là Johann Voigt đã chế tạo một số tàu hơi nước. Trong chuyến chạy thử không thành công lần đầu trên sông Delaware, họ đạt tốc độ 3 hải lí/giờ, nhưng khi vào bờ thì nó lại chạy nhanh hơn. Sau một số cải tiến, tàu Perseverance có thể đạt tốc độ 5 hải lí/giờ. Sau đó họ chế tạo tiếp tàu Experiment (xem con tem này, với mái chèo ở đuôi), và tàu Thornton, đạt tốc độ lớn nhất là 8 hải lí 1 giờ. Mặc dù chuyến tàu thử nghiệm chở khoảng 30 hành khách, nhưng con tàu đó vẫn khôgn đem lại lợi nhuận cho họ vào thời gian đó.


32047
-Trong khi đó ở UK, năm 1788 một người Anh là Patrick Miller và William Symington đã chế tạo một con tàu hơi nước có thể chạy 5 hải lí 1 giờ (sử dụng hai guồng chèo, xem con tem ở giữa). Vài năm sau đó, năm 1801 Symington đã chế tạo một cái dụng cụ để kéo cho Vua Dundas với cái tên thường gọi là Charlotte Dundas (xem con tem của Bhutan). Nó chính là con tàu có bánh lái ở đuôi với động cơ cực mạnh 10 HP.

Trong suốt chuyến chạy thử, con tàu đã kéo tới 2 xà lan 70 tấn đi quãng đường 31 km.






32048 32049
Robert Fulton đã chế tạo 2 con tàu đầu tiên của mình vào năm 1803 tại Pháp. Con tàu đầu tiên đã bị một trận bão phá huỷ, nhưng con tàu thứ hai thì lại rất tốt. Tuy nhiên các nhà chức trách đã không đồng ý và Fulton phải đưa tàu trở lại Mỹ. Năm 1807 ông chế tạo tiếp con tàu chạy bằng hơi nước tên “Steamboat”.. Nó dài 142’, xà rầm là 14’, dày 4’, chở 100 tấn hàng và động cơ 20 HP.
Trong lần chạy thử đầu tiên nó đạt tốc độ 4.5 hải lí 1 giờ, và Fulton cũng đã ngay lập tức bắt đầu chuyến vận chuyển hành khách đầu tiên của mình. Sau một lần đại tu sửa năm 1808, con tàu đã có thể chở được 100 hành khách. Nó bây giờ có tên là “North River steamboat ò Clermon”, gọi tắt là Clermont. Nó đã trở thành Con Tàu Hơi Nước thành công đầu tiên trong lĩnh vực thương mại.
Sau đó Fulton đã chế tạo thêm một số con tàu khác và trở thành người nổi tiếng (xem bên dưới)


32050
Năm 1816, một công ty vận chuyển hành khách trên sông Seine được thành lập ở Paris. Công ty đã dùng tàu hơi nước Margery mua từ Anh, nó được xây dựng ở Dumbarton năm 1814. Nó có một động cơ 10 HP, đạt tốc độ lớn nhất là 6 hải lí một giờ. Con tàu sau này được đổi tên là Elise (xem con tem bên trái). Trong suốt tháng 3 năm 1816, nó là con tàu đầu tiên vượt kênh đào của Anh, đi từ Newhaven đến Le Havre.


32051
Ngày 24 tháng 5 năm 1819, tàu Savannah đã rời cảng quê hương cùng tên và cập bến cảng Liverpool vào ngày 20 tháng 6, 27 ngày sau đó. Đó là chuyến vượt biển Đại Tây Dương của một con tàu động cơ hơi nước. Trong suốt chuyến hành trình của mình, động cơ đó chỉ hoạt động có 85 giờ. Thời gian còn lại con tàu chạy nhờ các mái chèo. Sauk hi vượt qua bờ biển Irish, con tàu bị vướng vào một vùng mây khói và nó được mô tả như một cột khói di động. Một số thông số kĩ thuật của tàu như sau: dài 109’, xà rầm 26’, đáy khoang dày 13’, động cơ 90 HP, tốc độ là 4 hải lí / giờ nếu biển lặng.


32052
Năm 1826, tàu Curacao được xây dựng tại cảng Dover. Lúc đầu nó được mang tên Calpe, nhưng sau đó nó được hải quân Hà lan mua lại và được đổi tên như bây giờ. Con tàu dài 177’, có hai động cơ hơi nước 100 HP, và tải trọng là 239 tấn. Nó là con tàu đầu tiên đi từ châu Âu, vượt Đại Tây Dương đến Nam Mỹ. Chuyến hành trình bắt đầu từ Hellevoetsluis, gần cảng Rotterdam vào ngày 26 tháng 4 năm 1827, và đến Panamaribo vào ngày 24 thágn 5. Trong suốt chuyến đi, tàu Curacao chỉ sử dụng động cơ hơi nước trong 11 ngày. Những mái chèo được thay đổi một số lần, và một số nồi hơi bị thủng. Tàu Curacao đã thực hiện tất cả 3 chuyến vượt Đại Tây Dương.

hienthuong
15-03-2009, 10:09
tiếp theo,,,

32467
Vào ngày 18 tháng 8 năm 1833, tàu S.S Royal William đã bắt đầu rời cảng Pictou, Canada và cập bến London 25 ngày sau đó, vì vậy nó trở thành con tau đầu tiên vượt Đại Tây Dương mà sử dụng động cơ hơi nước trong toàn bộ hành trình.. Cứ 4 ngày, các nồi hơi lại được làm sạch bằng muối. Trong khoảng thời gian đó, các động cơ lại được tạm dừng và buồm được giương lên. Các thông số kĩ thuật của tàu Royal William: tải trọng 363 tấn, dài 177’, xà rầm 28’, động cơ 300 HP, tốc độ trung bình là 5 hải lí, được chế tạo năm 1831 tại Canada.

Blue Riband là giải thưởng nổi tiếng ở Bắc Đại Tây Dương. Chẳng có một ai đặt ra quy tắc chính thức, nhưng nó vẫn có những quy tắc bất thành văn cho các con tàu tham gia:

- Tàu phải dùng vào vận chuyển hành khách

- Tàu phải đi từ Đông sang Tây, bắt đầu từ châu Âu và dừng ở Bắc Đại Tây Dương.

- Con tàu nào có vận tốc trung bình lớn nhất sẽ giành chiến thắng.


32468 32469
Bạn có thể thấy tàu Sirius trên con tem bên trái. Nó được chế tạo năm 1837 tại Leith, dài 200’, tải trọng 703 tấn. Nó đạt tốc độ 7.5 hải lí, sử dụng động cơ xi lanh kép 600 HP. Còn phía bên phải bạn sẽ thấy tàu Great Western, được chế tạo năm 1837, tại Bristol, dài 236’, tải trọng 1340 tấn. Tàu Great Western sử dụng động cơ hai xi lanh cực mạnh 750 HP, có thể đạt tốc độ 8.5 hải lí. Tàu Sirius của công ty Hải quân động cơ hơi nước Anh – Hoa kì chỉ mất 18 ngày đi từ Cork/Queenstown đến Sandy Hook/New York, nó đạt tốc độ trung bình là 8.03 hải lí.Có một sự kiện đã xảy ra vào tháng 4 năm 1838. Tàu Great Western của công ty tàu hơi nước Great Western rời Avonmouth 4 ngày sau đó, và đã đến New York chỉ chậm hơn tàu Sirius có 1 ngày. Chuyến hành trình có nó chỉ mất khoảng 15 ngày, tốc độ trung bình là 8.66 hải lí. Trong thời gian đó, cuộc đua Blue Riband vẫn chưa được phổ biến, nhưng cả hai con tàu sau này vẫn được vinh danh trong lịch sử những chuyến đua Blue Riband như là hai kỉ lục gia đầu tiên.



32470
Tàu Great Eastern được chế tạo từ năm 1857 đến 1859, bởi Isambard Kingdom Brunel, cũng là ông chủ sở hữu của Great Western. Nó có chiều dài 689’, xà rầm 85’, đáy khoang dày 30’, động cơ 8300 mã lực, guồng chèo xoay hai chiều, một chân vịt, tốc độ tối đa là 13.4 hải lí. Nó được biết đến là con tàu lớn nhất thời bấy giờ, nhưng nó cũng gặp phải rất nhiều điều rủi ro, không hay. Khi nó được hạ thuỷ, mạn tàu của nó lại bị mắc cạn. Trong chuyến chạy thử nghiệm, 6 người đã bị giết chết trong vụ nổ nồi hơi. Nó có khoang phòng rộng cho 3000 hành khách nhưng có chỉ chở có 43 hành khách trong chuyến vượt Đại Tây Dương lần đầu tiên.

Sau khi đổi chủ, con tàu đã được đại tu kĩ lưỡng và được dùng để vận chuyển dây cáp. Nó không đem lại lợi nhuận nào them, lí do vô cùng đơn giản: Tàu Great Eastern quá lớn so với thời đó. Nó đã bị phá hỏng năm 1888.


32471 32472
Tàu động cơ hơi nước trên sông Mississippi bắt đầu năm 1811 với chuyến đi đến New Orleans. Năm 1816, tàu George Washington được chế tạo. Nó được coi là nguyên bản cho hơn 5000 tàu Mississippi chế tạo theo sau này. Chiều dài của nó từ 190’ đến 320’, xà rầm từ 32’ đến 40’, đáy khoang dày khoảng 6’. Thông thường, bánh lái của nó được đặt ở đuôi tàu để bảo vệ tàu khỏi những đồ trôi nổi lung tung. Trên con tem Louisiana, bạn có thể thấy một cấu trúc xây dựng khá chuẩn. Bên phải là tàu Robert E. Lee, bánh lái một bên, nó có thể chạy nhanh hơn những tàu có bánh lái gắn ở đuôi. Ở Mississippi có rất nhiều cuộc đua được tổ chức giữa những tàu hơi nước vào nửa đêm vô cùng gay cấn. Một trong những cuộc đua nổi tiếng nhất diễn ra vào năm 1870 giữa tàu Natchez và tàu Robert E. Lee. Xuất phát từ St. Louis đến New Orleans. Tàu Robert E.Lee đã giành chiến thắng và giành luôn danh hiệu con tàu chạy nhanh nhất trên sông.


32473
Trên nền tem , bạn có thể thấy tàu Bonnington với động cơ gắn bên mạn. Nó được chế tạo năm 1911 tại Canada. Con tàu được dùng trong ngành chuyển phát bưu điện trong các vùng hồ Canada, nó phục vụ đến tận năm 1946. Động cơ đuôi tàu sẽ chạy chậm hơn tàu có động cơ gắn bên mạn, nhưng nó lại có tác dụng tiết kiệm hơn. Thêm vào đó tàu có động cơ ở đuôi sẽ bảo vệ tàu tránh khỏi những vật thể trôi nổi trên biển và tránh băng trôi.

Vào nửa sau thế kỉ 19, đó là thời đại của những con tàu bánh lái động cơ hơi nước, và nó cũng là thời điểm chấm dứt kỉ nguyên tàu có guồng chèo hơi nước..


32474
Con tàu đầu tiên khơi cuộc chiến giữa các tàu hơi nước là Fulton the First, chế tạo năm 1814. Nó không được sử dụng cho mãi đến khi chiến tranh nổ ra, nó được chế tạo nhưng lại bị chấm dứt khi chưa hoàn thành xong. Các guồng chèo hơi nước không phù hợp với cuộc chiến. Các bánh lái là một sự thay thế hợp lí, các nồi hơi trở thành nhược điểm vì nó rất dễ bị nổ và gây ra hoả hoạn chết người. Tuy nhiên các nhà xây dựng vẫn cố gắng hoàn thành nó. Họ đặt các bánh lái vào giữa hai mạn tàu, và nồi hơi thì đặt xuống so với mực nước. Trên con tem này bạn có thể thấy tàu Banshee bị phong toả trong suốt cuộc nội chiến ở Mĩ từ năm 1860 đến năm 1866. Những con tàu này có trách nhiệm vận chuyển quân trang và đạn dược đến những cảng bị vây hãm.


32475
Cuối cùng là hình ảnh một thuyền phà nhỏ, đang vượt sông Congo.