PDA

View Full Version : nhờ mọi người giúp đỡ


zodiac
15-03-2009, 09:45
hiện nay Zo tìm dc vài tem danh nhân nhưng tìm trên YH nặng wá gần như ko tìm dc và bị kẹt mạng
nhờ mọi người giúp đỡ

Zo xin chân thành cảm ơn

Lord Byron
32457

J.F Cooper
32458

J.Lelewel
32459

32460

32461

Literature
32462

các danh nhân đạt giải Nobel từ trái sang
Hernyk Sienkiewicz (1846-1916)
Wladysfaw Reymont (1867-1925)
Maria Sklodowska-Curia (1867-1934)
Czelaw Milosz ( 1911)

32463

hat_de
15-03-2009, 09:57
hiện nay Zo tìm dc vài tem danh nhân nhưng tìm trên YM nặng wá gần như ko tìm dc và bị kẹt mạng

em nói khó hiểu quá ... í là sao ... em tìm gì trên Y!M ...

có tem ở nhà rùi tìm trên danh mục để coi đủ hay chưa à
hay là thấy hình rùi tìm nơi bán

chẳng hỉu gì cả #:-s

zodiac
15-03-2009, 12:56
em nói khó hiểu quá ... í là sao ... em tìm gì trên Y!M ...

có tem ở nhà rùi tìm trên danh mục để coi đủ hay chưa à
hay là thấy hình rùi tìm nơi bán

chẳng hỉu gì cả #:-s

e wên mất
ý e là tìm thông tin về tiều sử của các danh nhân này :D

xin mọi người giúp đỡ

Saturn
15-03-2009, 13:27
tem đẹp wa, ko biết anh Zo có bán ko ạ:D:D:D, spam thế thôi:D:D:D

zodiac
15-03-2009, 17:44
tem đẹp wa, ko biết anh Zo có bán ko ạ:D:D:D, spam thế thôi:D:D:D

a có dùi mà có mỗi 1 bộ khi nào a tìm dc a báo cho các e hay :>

Ốc_hp
15-03-2009, 18:59
e wên mất
ý e là tìm thông tin về tiều sử của các danh nhân này :D

xin mọi người giúp đỡ

Vậy thì e cho danh sách tên các danh nhân là đc rùi. Vì hình tem nhỏ, có tem không ghi tên danh nhân hoặc ghi chữ bé, khó nhìn quá Zo.

huybh
15-03-2009, 19:11
Thánh Gioan Bosco cuộc đời và sự nghiệp
Con tem thứ tư

http://www.vietstamp.net/forum/attachment.php?attachmentid=32460

Linh mục (1815-1888)
Bổn mạng những nhà xuất bản
Ngày 16 tháng 8 năm 1815, Gioan chào đời trong một túp lều tranh thuộc tỉnh Turinô. Cha Ngài qua đời lúc Ngài được hai tuổi. Mẹ Ngài là bà Magarita một mình nuôi nấng ba người con trai. Bà tập cho con quen với công việc nặng nhọc, với đời cầu nguyện. Bà thường lập lại với các con bà :
- Chúa thấy hết, Chúa thấy hết.

Và con cái bà biết rằng chính nhờ tình yêu mà Người ta làm đẹp lòng Chúa, Gioan sau này sẽ nói :
- Nếu tôi trở thành linh mục đó là nhờ mẹ tôi.

Cậu bé đã tỏ ra có ơn gọi làm tông đồ. Ngoài đồng cỏ, Ngài đã đổi phần bánh ngon miệng của mình lấy mẩu bánh đen của một mục đồng nghèo. Mẹ Ngài trách cứ Ngài vì đã làm bạn với những người xấu. Gioan đáp lại : - Khi con chơi với chúng nó, chúng nó bớt khùng hơn.

Lúc chín tuổi, Gioan đã có một giấc mơ lạ lùng: một đám đông trẻ con tinh nghịch vây quanh Ngài, chúng nó nói phạm thượng. Bất chợt chúng hiện hình thành bọn lang sói. Nhưng đức Trinh Nữ đã nói với Gioan :
- Đừng dùng bạo lực, nhưng hãy ngọt ngào nếu con muốn chiếm được tình nghĩa với chúng.

Ngài còn nói : - Đó là môi trường làm việc cùng con. Sau này con sẽ làm cho con cái mẹ, điều Mẹ sắp làm cho những con thú này.

Và rồi những con vật dữ tợn trên biến thành chiên ngoan Gioan đã kẻ lại giấc mơ trên. Một người anh đã nói với Ngài : - Mầy sẽ là thằng chăn chiên. Và người anh khác nói tiếp : - Hay là tướng cướp.

Vì tình yêu Chúa, cậu bé tưởng tượng ra mình là một thằng múa rối. Ngày Chúa nhật bọn trẻ xếp vòng tán thưởng nhà nhào lộn và leo giây đại tài, cha mẹ chúng, cũng tới nữa, những lúc đổi trò, mọi người phải lần chuỗi. Nhà nhào lộn trở thành nhà giảng thuyết, lập lại bài giảng của cha sở.

Một linh mục già cho Gioan cuốn sách văn phạm latinh và dạy Gioan học. Một trong các anh ghen tỵ. Gioan ôm sách đi tìm việc làm trong một nông rại. Hai năm sau trở về nhà, Gioan phải chân không cuốc bộ hai mươi cây số ngàn để tới trường học mỗi ngày. Sau này ở trường Chieri, Ngài làm gia nhân khi có giờ rảnh để khỏi tốn tiền mẹ. Ngài thành lập một hội vui để lôi kéo bạn bè vào đường thiện hảo, lành mạnh.

Gioan được thụ phong linh mục. Theo phong tục Italia, người ta gọi Ngài là Don Boscô. Mẹ Ngài đã nhắn nhủ : - Đùng lo nghĩ tới mẹ nữa mà chỉ cầu nguyện cho mẹ thôi. Lo lắng duy nhất của con là phần rỗi các linh hồn.

Ngài theo học ở Turinô, viếng thăm các tù nhân và đã kinh ngạc khi thấy bao nhiêu là thanh thiếu niên ở đó, thấy trong các đường phố những đứa trẻ này bị bỏ mặc cho sự cùng khổ và tật xấu của chúng. Phương pháp cứu vớt tuổi trẻ này. Trong thánh đường, một ông quản xua đuổi đứa trẻ lêu lổng. Gioan nhắc nhở ông ta rằng: nó lại không muốn nhận biết Thiên Chúa tốt lành sao ?

Chính Don Boscô sẽ dạy nó đọc chữ và giải thích giáo lý cho nó. Hôm sau đứa trẻ trở lại với bạn bè của mình. Hội bảo trợ đầu tiên được thành lập. Trong hai tháng số trẻ lên tới cả trăm. Nhưng tụ họp chúng ở đâu ? Khắp nơi người ta đều xua đuổi chúng, và người ta lại không cho rằng Don Boscô điên rồi sao ? Ngài thuê một căn nhà trong khu phố nghèo đói nhất và phải trả tiển nửa tháng một lần, Mẹ Ngài lo lắng :
- Con không có lấy một xu.

Thánh nhân trả lời : - Nếu mẹ có tiền lại chẳng cho con sao ? Mẹ có tin là Chúa quan phòng giầu có vô cùng lại không tốt bằng mẹ sao ?

Ngài tập họp những trẻ xấu nết lại và dọn cho chúng ruớc lễ vỡ lòng, khu vực đốn mạt sắp trở thành nơi có tinh thần Kitô giáo nhất thành phố. Ngài không hề mất tin tưởng. Không có gì làm Ngài nản chí được. Ngài dẫn về cho mẹ mình những đứa vô lại chiêu tập trong một hàng quán. Đêm về những đứa vô lại này biến mất, mang theo cả chăn nệm, Ngài đưa về một thàng nhãi bị trui đến tận xương tủy. Chẳng mấy chốc căn phòng đã có tới bảy đứa như vậy.

Don Boscô mua một căn nhà. Trẻ nội trú đông nhung nhúc. Một ngày sống bắt đầu với thánh lễ, sau đó là đi học hay tập nghề. Chính lúc này mà thánh nhân muốn giúp đỡ từ những người nghèo tới các công tử. Các nhà sắp được xây dựng khắp nơi, cả đến Mỹ Châu.

Đối với các trẻ em nam, Gioan đã thiết lập một dòng gồm các linh mục mang danh là Salésien, để kính thánh Phanxicô Salê mà Ngài đã lấy châm ngôn của thánh nhân làm của mình.
- Lạy Chúa xin cho các linh hồn vì phần còn lại có đang giá gì cho con đâu ?

Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó : - Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.


Cùng với chị thánh Maria Mazzarello, Ngài cũng thiết lập một dòng tu mang danh hiệu các nữ tu Đức Mẹ phù hộ. Công cuộc các chị cũng sẽ lan rộng trên khắp thế giới. Mệnh lệnh của Ngài là: - Hãy tin tưởng cầu nguyện và can đảm tiến tới không ngừng.

Don Boscô đi thực hiện các công trình tại Pháp. Các sự lạ xảy ra vô số trên đường Ngài đi qua. Ơ Marseille Ngài gặp một đứa trẻ bệnh hoạn, Ngài bảo nó đọc một kinh kính Mừng và chữa lành cho nó. Cả đứa trẻ lẫn mẹ nó khóc nức nở vì biết ơn. Dọc đường xe Ngài bị vây chặt đến độ người đánh xe đã phải kêu lên : - Kéo theo một con quỉ, còn hơn chở một vị thánh.

Ở Paris Ngài được tiếp đón tưng bừng. Đức Hồng y xin Ngài chúc lành. Thi sĩ Victor Hugô hai lần muốn gặp Ngài. Người ta ngạc nhiên khi thấy Ngài rất đơn sơ vui vẻ và hiền hậu. Ngài giảng dạy nhiều. Các viện mồ côi, trường huấn nghệ, hội bảo trợ mọc lên khắp nước Pháp. Người ta nói Ngài dừng lại một chút, Người trả lời rằng: lên thiên đàng ta sẽ ngừng, hoặc, ma quỉ không có ngừng. Don Boscô muốn đưa cả thế giới về với Chúa Kitô. Các giấc mơ cho Ngài biết rằng: ước muốn của Ngài sẽ được thực hiện. Trong một giấc mơ Ngài thấy những người hoang dại quỳ gối trước mặt các tu sĩ Salésiens. Suốt đời Ngài không dứt các giấc mơ, các lời tiê đoán và các thị kiến.

Gioan phải trả cho định mệnh siêu nhiên của Ngài bằng những dằn vặt mà chỉ mình Ngài biết được. Một vị Hồng y đã phải lo lắng thấy mặt Ngài xanh mét kiệt sức. Thánh nhân cho Ngài biết là ma quỉ quấy phá mình cả đêm. Nhưng những người thân cận không hề biết gì những đau khổ của Ngài. Ngài nói : - Vì hồn tôi đã uống những chén đắng, tôi có quyền thêm vào những lo âu của con cái tôi bằng một gợn sóng đau khổ không ?

Bọn ác nhân giận dữ vì việc lành Ngài đã làm, đã tìm cách sát hại Ngài. Nhưng sức mạnh của sự dữ không nghĩa lý gì. Vượt qua mọi trở ngại tưởng như không thể lướt thắng nổi, Don Boscô còn hoạt động nhiều hơn nữa. Y sĩ tuyên bố rằng: phép lạ lớn lao nhất là Don Boscô còn sống được.

Cuối cùng Gioan cảm thấy rằng: thân xác Ngài không còn chiến đấu nổi nữa. Ngài sắp qua đời. Ngài nói với các linh mục của mình khi họ tới thăm : - Hãy nói với các con cái của tôi rằng: tôi đợi chúng tất cả trên thiên đàng.

Ngài còn nói như lời dặn dò thân thiết nhất : - Hãy cổ võ việc siêng năng rước lễ và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ:

Người ta còn nghe thấy Ngài nói trong cơn mê sảng : - Mẹ, mẹ ơi, ngày mai... Mẹ hãy mở cửa thiên đàng cho con.
Thánh Don Boscô qua đời, đoàn con cái xếp hàng hôn bàn tay đã tận tình cứu giúp họ. Ngày 30 tháng giêng năm 1888.

zodiac
15-03-2009, 19:58
Vậy thì e cho danh sách tên các danh nhân là đc rùi. Vì hình tem nhỏ, có tem không ghi tên danh nhân hoặc ghi chữ bé, khó nhìn quá Zo.

e thấy có mà ko biết có đúng ko?
e chỉnh lại :D

hat_de
16-03-2009, 07:08
e wên mất
ý e là tìm thông tin về tiều sử của các danh nhân này :D

xin mọi người giúp đỡ


bước 1: xác định tên
bước 2: dùng Google hoặc công cụ tìm kiếm nào đó
bước 3: tổng hợp các nguồn tin
bước 4: cập nhật những gì lý thú vào đầu, up lên đàn chia sẻ cùng mọi người càng tốt

zodiac
16-03-2009, 09:09
bước 1: xác định tên ok
bước 2: dùng Google hoặc công cụ tìm kiếm nào đó tìm ra 1 đống
bước 3: tổng hợp các nguồn tin nặng wá vào gần 5 phút mã chưa có thông tin :((
bước 4: cập nhật những gì lý thú vào đầu, up lên đàn chia sẻ cùng mọi người càng tốt ko wa nổi bước 3

xihuan
16-03-2009, 10:06
Maria Sklodowska-Curia (1867-1934)

Thông tin trên Wiki nè: http://vi.wikipedia.org/wiki/Marie_Curie


Một số tem khác về bà:

32689 32690

32691 32692

32693 32694


Chồng của Maria - Pierre Curie: http://vi.wikipedia.org/wiki/Pierre_Curie

32695 32696


Năm 1903, ông cùng vợ, Maria Skłodowska-Curie (Marie Curie), và Henri Becquerel đã được nhận giải Nobel về vật lý.

32700 32701

32702 32703


Thông tin thêm về Henri Becquerel: http://vi.wikipedia.org/wiki/Henri_Becquerel

32706 32707

zodiac
16-03-2009, 10:21
c ơi tải trên Viki post lên dùm e :P
nhìu khì vô viki nó ko lên :(( (( :((

tiny
17-03-2009, 07:10
http://vi.wikipedia.org/wiki/Lord_Byron

Lord George Gordon Noel Byron (22 tháng 1 năm 1788 – 19 tháng 4 năm 1824) là nhà thơ lãng mạn Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế giới thế kỷ 19.

Byron sinh ở London, trong một gia đình quí tộc đã sa sút. Học ở Harrow School và Đại học Cambridge. Năm 1807 in tập Hours of Idleness (Những giờ giải trí), năm 1809 in trường ca English Bards and Scotch Reviewers (Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland) phê phán những nhà lãng mạn quá khích. Từ năm 1809 là thành viên nghị viện Anh, sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Năm 1812 in 2 chương đầu của Childe Harold's Pilgrimage (Chuyến hành hương của Childe Harold) kể lại chuyến đi Nam Âu và Cận Đông. Nhân vật của trường ca là chàng trai trẻ thất vọng trước cuộc sống thiếu lý tưởng và tự do. Năm 1812, phát biểu trước nghị viện, Byron tố cáo tầng lớp thống trị ở Anh và đòi hủy bỏ luật tử hình những người công nhân phá máy.

Trong những tác phẩm The Giaour (1813), The Bride of Abydos (1813), The Corsair (1814), Lara (1814), The Siege of Corinth (1816) Byron kêu gọi đấu tranh giành tự do. Năm 1816 ông đi sang Thụy Sĩ, gặp Percy Bysshe Shelley, hai người trở thành bạn của nhau. Những năm 1817-1820 Byron sống ở Venezia, cảm thông với nỗi khổ của người Ý trước ách cai trị của người Áo. Thời kỳ này ông viết một số trường ca và 2 chương tiếp theo của Childe Harold's Pilgrimage. Những năm 1818-1819 ông viết trường ca Don Juan gồm 16 chương và chương 17 viết dở. Năm 1823 ông sang Hy Lạp để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm 1824 ở Mesolongi.

Lòng say mê mãnh liệt, tính trữ tình sâu sắc, sự bạo dạn về ý tưởng và vẻ sống động của những hình tượng khiến Byron trở thành một trong những nhà thơ lớn và nổi tiếng nhất ở châu Âu thế kỷ 19. Tác phẩm của Byron mở ra những khả năng mới của chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp nghệ thuật. Byron đưa vào thơ ca những nhân vật mới, làm giàu hình thức và thể loại thơ ca. Ông có sự ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca thế giới thế kỷ 19, sinh ra một trường phái thơ ca ở nhiều quốc gia khác nhau với tên gọi chủ nghĩa Byron.


Tác phẩm

Lord ByronHours of Idleness (1806)
English Bards and Scotch Reviewers (1809)
Childe Harold's Pilgrimage (1812 – 1818)
The Giaour (1813)
The Bride of Abydos (1813)
The Corsair (1814)
Lara (1814)
Hebrew Melodies (1815)
The Siege of Corinth (poem) (1816)
Parisina (1816)
Manfred (1817)
The Lament of Tasso (1817)
Beppo (1818)
Mazeppa (1819)
The Prophecy of Dante (1819)
Marino Faliero (1820)
Sardanapalus (1821)
Heaven and Earth (1821)
Werner (1822)
The Deformed Transformed (1822)
The Age of Bronze (1823)
Don Juan (1819 – 1824)

32807 32808
Tranh màu Lord Byron ...........Lord Byron trong trang phục Albani

xihuan
17-03-2009, 08:12
Chị vào đường link của wiki bình thường mà.

http://vi.wikipedia.org/wiki/Marie_Curie

Marie Curie (Maria Skłodowska-Curie; 7 tháng 11, 1867 – 4 tháng 7, 1934) là một nhà hóa học người Pháp gốc Ba Lan và một người đi đầu trong ngành tia X đã hai lần nhận giải Nobel (Vật lý năm 1903 và Hóa học năm 1911). Bà đã thành lập Viện Curie ở Paris và Warszawa.


32810


Sinh ra ở Warszawa, Ba Lan, những năm đầu tiên của Marie không được vui lắm vì bốn năm sau khi chị bà qua đời, mẹ bà cũng qua đời. Marie rất chăm chỉ học tập, có khi bỏ cả ăn và ngủ để học. Sau khi học xong trung học, Marie bị suy nhược thần kinh một năm. Vì là phụ nữ, Marie không được nhận vào trường đại học nào ở Nga hay Ba Lan cho nên bà đã làm người dạy trẻ trong vài năm. Cuối cùng, với sự tài trợ của một bà chị, Marie đến Paris để học hóa học và vật lý tại trường Sorbonne, nơi mà sau này bà trở thành giảng viên phụ nữ đầu tiên.

Tại trường Sorbonne bà gặp và kết hôn với Pierre Curie, một giảng viên khác. Họ cùng nhau nghiên cứu các vật chất phóng xạ, đặc biệt là quặng urani uraninit, có tính chất kỳ lạ là phóng xạ hơn chất urani được chiết ra. Đến 1898 họ đã có giải thích hợp lý: uraninit có một chất phóng xạ hơn urani; ngày 26 tháng 12 Marie Curie tuyên bố sự hiện hữu của chất này.

Sau nhiều năm nghiên cứu họ đã tinh chế vài tấn uraninit, ngày càng tập trung các phần phóng xạ, và cuối cùng tách ra được chất muối clorua (radium chloride) và hai nguyên tố mới. Nguyên tố thứ nhất họ đặt tên là polonium theo tên quê hương của Marie (Pologne theo tiếng Pháp, Polska theo tiếng Ba Lan), và nguyên tố kia tên radium vì khả năng phóng xạ của nó (radiation).

Năm 1903 bà được nhận giải Nobel vật lý cùng với chồng Pierre Curie và Henri Becquerel cho các nghiên cứu về bức xạ. Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải này.

Tám năm sau, bà nhận giải Nobel hóa học trong năm 1911 cho việc khám phá ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium. Bà cố ý không lấy bằng sáng chế tiến trình tách radium, mà để các nhà nghiên cứu tự do sử dụng nó.

Bà là người đầu tiên đoạt, hay chia cùng người khác, hai giải Nobel. Bà là một trong hai người duy nhất đoạt hai giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau (người kia là Linus Pauling).

Sau khi chồng bà qua đời, dư luận đồn thổi bà có một cuộc tình với nhà vật lý Paul Langevin, một người đã có vợ và bỏ vợ, gây ra một cuộc xì căng đan. Tuy bà là một nhà bác học được coi trọng tại Pháp, dư luận Pháp có phần bài ngoại vì bà là một người nước ngoài, từ một nơi ít người biết đến (lúc ấy Ba Lan là một phần của Nga) và có nhiều người gốc Do Thái (Marie là một người vô thần lớn lên trong một gia đình Công giáo, nhưng việc đó không ảnh hưởng đến dư luận). Hơn nữa, Pháp lúc đó hãy còn rung động về vụ Dreyfus. Điều ngẫu nhiên là sau này cháu trai của Paul Langevin là Michel đã kết hôn với cháu gái của Marie Curie là Hélène Langevin-Joliot.

Trong Đệ nhất thế chiến, bà vận động để có các máy chụp tia X di động để có thể điều trị các thương binh. Những máy này được cung cấp lực từ xạ khí radium, một khí không màu, phóng xạ từ radium, sau này được nhận ra là radon. Marie đã lấy khí này từ radium bà đã tinh chế. Ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, bà đã bán giải Nobel làm bằng vàng của mình và của chồng để giúp trong nỗ lực chiến tranh.

Năm 1921, bà đã đến Hoa Kỳ để gây quỹ trong cuộc nghiên cứu radium. Bà được đón tiếp nồng hậu.

Trong những năm cuối cùng, bà thất vọng vì nhiều nhà thuốc và người làm mỹ dung đã không thận trọng khi dùng các vật chất phóng xạ.

Bà qua đời gần Sallanches, Pháp trong năm 1934 vì ung thư bạch cầu, chắc chắn là vì bà đã tiếp xúc với một số lượng bức xạ quá cao trong các nghiên cứu.

Con gái lớn nhất của bà, Irène Joliot-Curie, cũng được trao một giải Nobel hóa học trong năm 1935, một năm sau khi Marie Curie qua đời. Con gái út của bà, Eve Curie, viết một cuốn tiểu sử về Marie sau cái chết của mẹ mình.

Năm 1995, tro xương của bà được đưa vào điện Panthéon, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên được an nghỉ tại đây vì cống hiến của mình.

Trong một thời gian siêu lạm phát trong đầu thập niên 1990, tờ giấy bạc 20.000 zloty của Ba Lan có hình bà. Hinh bà cũng đã hiện diện trong tờ 500 franc của Pháp cũng như nhiều tem thư và tiền kim loại.


32811
Tờ tiền 20000zl của Ba Lan năm 1989


Nguyên tố số 96, Curium, ký hiệu Cm, được đặt tên để tôn vinh bà và Pierre.

Tên của bà cũng được đặt tên cho 1 trường trung học phổ thông ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.

zodiac
17-03-2009, 09:34
máy e cực kì yếu nên nhờ mọi người tìm
e đợi 5' nó còn chưa lên đây :((

hat_de
17-03-2009, 16:05
máy e cực kì yếu nên nhờ mọi người tìm
e đợi 5' nó còn chưa lên đây :((

ko hẳn là do máy yếu đâu. đôi khi anh dùng IE, vào Google rùi tìm cái gì đó, thường hiện ra 1 bảng nhiều link, vào các link bình thường ko sao nhưng cứ vào link của wiki thì treo lủng lẳng cái IE đó. Sự việc trên hoàn toàn ko diễn ra nếu sử dụng trình duyệt Opera, anh cũng ko rõ nguyên nhân. Em thử đổi trình duyệt xem :D

zodiac
04-04-2009, 13:48
giúp e với :((

A. Arkac

36239


Boris Hmyrya

36240


H. Kvitka Osnovianenko

36241


Leonid Hlibov

36242


M. Leontovych

36243


M. Maksymovych

36244


O. Myshuha

36245


Simon Petliura

36246


Serhii Lyfar

36247