PDA

View Full Version : Du học Mỹ


vnmission
21-11-2009, 21:56
Dành riêng cho 9X: hãy nhìn vào những con số, và cho tôi biết em có ý định du học không? Tại sao?

71541

ngotthuha231
21-11-2009, 22:27
Nếu có cơ hội, cháu sẽ đi, và quốc gia đầu tiên cháu chọn sẽ là Mỹ.

Lí do đơn giản nhất: Cháu đang theo học ngành Ngôn ngữ học và Mỹ là quốc gia luôn đi đầu trong ngành khoa học này.

Cháu có rất nhiều bạn bè hiện đang du học bên đó. Cháu hiểu những thuận lợi và khó khăn của du học sinh Việt Nam tại Mỹ, và trước sau cháu cũng chỉ cố gắng có được cơ hội được du học tại quốc gia này thôi.

Cháu cám ơn bác đã cho chúng cháu những thông tin bổ ích như thế này!

Cháu ko hiểu bác muốn khuyên 9X tụi cháu những gì ạ? :|

hat_de
21-11-2009, 23:27
VN: 46,2 % <=== con số cao nhất trong bảng tống kết kia ... ai đó có thể giúp giải thích thêm về ý nghĩa 1-year change và tại sao VN lại cao vậy ko ạ !

nlph410
22-11-2009, 14:22
VN: 46,2 % <=== con số cao nhất trong bảng tống kết kia ... ai đó có thể giúp giải thích thêm về ý nghĩa 1-year change và tại sao VN lại cao vậy ko ạ !
Theo em nghĩ đó là tỉ lệ tăng or giảm học sinh du học của mỗi nước sau 1 năm đó bác! Hjhj. Còn về phần VN tại sao lại cao như vậy thì em nghĩ có lẽ là tại VN vẫn kô bị ảnh hưởng nhiều về suy thoái kinh tế và ngày càng có nhiều học sinh VN nhận thức đúng đắn hơn về việc du học ở Mỹ ^^ :D

vnmission
23-11-2009, 22:12
Nếu có cơ hội, cháu sẽ đi, và quốc gia đầu tiên cháu chọn sẽ là Mỹ.

Cháu ko hiểu bác muốn khuyên 9X tụi cháu những gì ạ? :|

What the mind of man can conceive and believe, it can achieve.

Và chúc em may mắn!

Nhân cách: Món quà vô giá

(Hoathuytinh.com)

Paul là một trong những học sinh tôi quý nhất, nhưng lại không phải là một trong những học trò giỏi của tôi. Một ngày nọ, Paul bước vào phòng tôi và hỏi:

"Thưa thầy, câu nói mà thầy ghi trên bảng tin có đúng hay không ạ? Hay thầy viết ra chỉ vì nó nghe có vẻ bóng bẩy".

"Câu nói nào?", tôi hỏi lại mà không rời mắt khỏi chiếc bàn giấy của mình.

"Thưa thầy, đó là câu: Nếu chúng ta nhận thức được và tin tưởng vào một điều gì đó, chúng ta sẽ đạt được nó."

Tôi ngẩng mặt lên nhìn Paul rồi trả lời: "Tác giả của câu danh ngôn này, ông Napoleon Hill, đã viết ra nó sau nhiều năm tìm hiểu cuộc sống của những bậc vĩ nhân và phát hiện ra rằng chính niềm tin vào câu châm ngôn trên là điểm chung của tất cả họ".

"Ý của thầy là nếu như em có ý tưởng và tin vào nó thì em có thể thực hiện được ý tưởng đó?", Paul hỏi tôi với một xúc cảm mãnh liệt khiến tôi hoàn toàn bị cuốn hút.

"Theo những gì mà thầy đã chứng kiến và đọc qua thì đó không phải là câu nói suông mà là một qui luật đã được lịch sử kiểm nghiệm".

Paul đi chậm rãi quanh căn phòng. Đột nhiên em quay lại nhìn tôi với một quyết tâm mà trước đây tôi chưa từng thấy ở em và nói: "Thưa thầy Schaltter, trước đây em luôn là một học sinh kém và em biết là em sẽ phải trả giá cho điều này. Tuy nhiên nếu như em nghĩ mình là một học sinh giỏi và tin vào điều đó thì liệu em có thể trở thành một học sinh giỏi được không?"

"Tất nhiên là được rồi, Paul. Tuy nhiên em nên biết điều này: nếu như em thật sự tin vào một điều gì đó, em phải nỗ lực hết mình để đạt được nó. Thầy tin là sức mạnh của ý chí sẽ giúp em rất nhiều một khi em có quyết tâm."

Sau một lúc im lặng, Paul lên tiếng: "Vâng, thưa thầy, đến cuối học kỳ này em sẽ trở thành một học sinh giỏi."

"Đó là một thử thách thật sự đấy Paul, nhưng thầy tin là em sẽ đạt được điều mà em vừa mới nhận thức ra."

Những tuần sau đó, Paul đã tự hình thành cho mình một sự ham hiểu biết mãnh liệt khi luôn đưa ra những câu hỏi thông minh và thể hiện một ý thức kỷ luật cao qua cách ăn mặc và tác phong chỉnh tỏ của mình. Điểm học của em bắt đầu tăng dần lên và lần đầu tiên trong cuộc đời học sinh của mình, bạn bè em đã bắt đầu nhờ em giúp đỡ. Và kèm theo đó Paul cũng dần dần trở thành một học sinh thân thiện và hòa nhã với bạn bè.

Thế rồi cuối cùng thành công cũng đến với em. Vào một buổi chiều ngày thứ sáu, tôi ngồi vào bàn và bắt đầu chấm điểm cho bài kiểm tra quan trọng về Hiến pháp nước Mỹ của lớp Paul. Tới bài của Paul tôi đã phải đọc kỹ nhiều lần bài làm của em trước khi quyết định cầm cây bút đỏ lên và ghi điểm A cộng vào bài. Đây là một bài làm xuất sắc và cũng là điểm A cộng đầu tiên của Paul. Sau đó tôi tính điểm trung bình của Paul và vui mừng nhận ra rằng em đã đạt được điểm giỏi như mong muốn.

ngotthuha231
23-11-2009, 22:57
What the mind of man can conceive and believe, it can achieve.

Thanks for ur advice.
Let me try!
:)

vnmission
11-12-2009, 22:34
Giáo dục đại học tại VN hiện nay đúng là còn nhiều vấn đề. Bài này được viết cách đây hơn 1 năm (11/2008), nhưng còn khá thời sự. Thomas Vallely là một giáo sư khá nổi tiếng tại Việt Nam, tới ta nhiều lần suốt hơn 20 năm qua, rất sắc sảo. Ben Wilkinson là một người Mỹ giỏi tiếng Việt, hình như hiện vẫn ở chủ yếu tại TP. HCM, rất thân thiện, yêu quý VN.

Xin giới thiệu với các bạn chưa tham khảo:

73858

http://www.hks.harvard.edu/innovations/asia/Documents/HigherEducationOverview112008.pdf

kimma
16-12-2009, 09:47
800 tiến sĩ tương lai kiến nghị cách quản du học sinh

Cập nhật lúc 13:30, Chủ Nhật, 13/12/2009 (GMT+7)

Nghiên cứu sinh tiến sĩ ngành Toán học Đỗ Đức Hạnh (ĐH California, Berkeley, Mỹ) vừa gửi tới VietNamNet "phản hồi dư thảo về quy chế quản lý công dân Việt Nam được đào tại nước ngoài".

Anh cho biết, phản hồi được viết dưới hình thức thư kiến nghị này được chắp bút từ các ý kiến trao đổi trên diễn đàn "tiến sĩ việt nam" (PhDvn.org). Đây là diễn đàn với khoảng 800 thành viên là du học sinh tham gia. Phản hồi này, đồng thời cũng đã được gửi đến diễn đàn chính thức của Bộ GD-ĐT.
Để thêm góc nhìn từ "người trong cuộc", VietNamNet giới thiệu những góp ý cho dự thảo của các thành viên của diễn đàn.

"Đi quá giới hạn"

Sẽ là hoàn toàn bất hợp lý khi ép buộc các du học sinh tự bỏ tiền ra du học phải về Việt Nam trong vòng 3 năm. Họ đã tự bỏ tiền ra để đầu tư cho tương lai của họ, vậy cũng nên có quyền tự lựa chọn nơi làm việc của mình miễn là không vi phạm pháp luật.

Theo dự thảo trên, việc áp dụng quy chế này cho tất cả các du học sinh, dù tự túc hay tự xin học bổng du học là đi quá giới hạn của Bộ GD-ĐT.
Dự thảo này sẽ không chỉ ảnh hưởng tới những lưu học sinh chưa kịp về nước trước ngày thi hành dự thảo mà có lẽ ảnh hưởng tới tất cả các lưu học sinh từ trước tới nay: từ Đông Âu, Liên Xô (cũ) cho tới những người theo Fulbright, VEF, AUSAID, DAAD...
Những người này dù đang có công việc ổn định nhưng chưa đúng chuyên môn có lẽ sẽ được BGD&ĐT thuyên chuyển công tác đến những vị trí thích hợp để sử dụng nguồn nhân lực một cách hợp lý và hiệu quả nhất hay không? Ví dụ, trước khi đi tôi là cán bộ của Viện Khoa học Việt Nam, vậy khi tôi về nước liệu tôi có vui vẻ trở thành giảng viên chính của một trường làng ở miền núi hay không, nếu được phân công công tác?

Nhưng theo tôi được biết, cho đến nay vấn đề việc làm của người làm nghiên cứu khoa học (NCKH) vẫn chưa được giải quyết thấu đáo. Người làm NCKH vẫn phải sống ở mức độ nghèo khổ (một cán bộ nghiên cứu ở Viện Khoa Học Việt Nam có thu nhập 2 triệu đồng một tháng). Vậy BGD&ĐT chỉ nên thực hiện chính sách phân công công tác khi có thể bảo đảm một mức lương để người làm NCKH đủ sống và nuôi gia đình.

Theo điều 6.2 khoản a, Lưu học sinh được cấp học bổng có nghĩa vụ học tập, nghiên cứu, thực tập đúng quy định về thời hạn, bậc học và ngành nghề đã được phân công hoặc đăng ký, không được quyền gia hạn nghiên cứu. Nhưng theo định nghĩa ở điều I.1, các du học sinh theo học bổng VEF cũng bị xếp vào diện này, và do đó cũng phải chấp nhận sự phân công công tác của BGD&ĐT. Điều này trái với chính sách của VEF cũng như logic thông thường, vì BGD&ĐT hoàn toàn không có vai trò gì đối với quỹ học bổng này.

Ví dụ một sinh viên theo học trường Đại Học Sư phạm chấp nhận chính sách miễn học phí của BGD&ĐT thì sinh viên đó chịu sự phân công công tác là điều hoàn toàn hợp lý so với những lợi ích họ đuợc hưởng. Tuy nhiên nếu sinh viên đó tự tìm được nguồn tiền đóng tiền học mà cũng phải chịu sự phân công công tác thì lại là điều hoàn toàn bất cập. Chưa kể, điều này sẽ tạo tiền đề cho sự tiêu cực, chạy chọt để được phân công công tác.
Về Việt Nam sau khi tốt nghiệp bao lâu?

Một trong những điểm không rõ ràng của quyết định, đó là không quy định rõ thời gian phải về Việt Nam sau khi tốt nghiệp là bao nhiêu lâu. Quyết định này có nghĩa chỉ cần về Việt Nam một thời gian bất kỳ (ví dụ một tuần) là đủ hay có nghĩa du học sinh mãi mãi không được rời khỏi Việt Nam, kể cả đi trao đổi nghiên cứu khoa học? Trong cả hai trường hợp, đây đều là những điều không nên áp dụng.
Tôi thiết nghĩ, điều luật này nên thay đổi theo một trong các chiều hướng: (1) Bỏ hẳn quy định này, (2) Quy định thời gian ở lại dài hơn (7 năm hoặc lâu hơn), (3) Quy định thời gian làm việc tối thiểu ở VN (2 năm như đối với nghiên cứu sinh VEF) hoặc (4) Chỉ cần có vị trí công tác tại VN (làm nhà nước hoặc làm ngoài đều được) là đủ tiêu chuẩn đi nước ngoài tiếp.
Ngoài ra, khi một công dân Việt Nam, muốn đi ra nước ngoài công tác, làm việc (ví dụ xuất khẩu lao động) thì Đảng và Nhà Nước luôn tạo mọi điều kiện, vì đây không chỉ là quyền lợi cá nhân mà còn là một nguồn thu ngoại tệ cho đất nước.
Vậy tại sao, chỉ vì trước đó là lưu học sinh mà một công dân lại không thể làm việc ở nước ngoài, khi có thể coi họ là xuất khẩu lao động chất lượng cao? Phải chăng BGD&ĐT đã lấn quyền của Bộ Lao Động-Thương Binh &Xã Hội?
Bảng điểm là sở hữu cá nhân

Theo tôi được biết bảng điểm là vật thuộc sở hữu cá nhân, và nhiều du học sinh không nhận bằng do BGD&ĐT Việt Nam cấp. Vậy tại sao các lưu học sinh theo diện du học tự túc cũng phải nộp bảng điểm cho BGD&ĐT 6 tháng một lần?
Thực chất việc buộc báo cáo bảng điểm 6 tháng một lần này chỉ mang nặng tính hình thức. Khi nhận được bảng điểm, BGD-ĐT có thể xử lý như thế nào: can thiệp vào cơ sở giáo dục của nước ngoài để xử lý lưu học sinh, ép buộc lưu học sinh thôi học hay chỉ để răn đe?
Tôi nghĩ rằng tất cả đều không mang lại kết quả nào cả! Chúng ta đang tiến tới cải cách thủ tục hành chính, không nên sử dụng tư duy thời bao cấp ra để quản lý những thứ thuộc sở hữu cá nhân.

Kìm hãm tiềm năng nhân lực cho khoa học công nghệ
Đây tưởng như một biện pháp khích lệ các du học sinh về nước để cống hiến đóng góp cho tổ quốc nhưng thật ra lại là bóp chết nền khoa học một cách nhanh nhất.
Hiện tượng chảy máu chất xám xảy ra ở nhiều nước nhưng chưa từng có nước nào sử dụng các biện pháp hành chánh thế này để bắt công dân mình về nước. Các nước như Tàu, Ấn thật ra có rất nhiều người giỏi ở lại Mỹ làm giáo sư, làm nhà nghiên cứu. Có ai chắc rằng những người này trở về nước họ sẽ làm được bất cứ chuyện gì hữu ích?

Đối với những người làm khoa học, sau khi bảo vệ tiến sĩ thì họ sẽ trải qua giai đoạn làm việc sau tiến sĩ kéo dài khoảng 7 năm để trở thành một nhà khoa học trưởng thành, giữ những vị trí giáo sư (Full Professor) tại các trường đại học, các viện nghiên cứu rên thế giới.
Giai đoạn 7 năm này đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự phát triển sự nghiệp khoa học của họ. Những nhà khoa học này đã có nhiều đóng góp một cách gián tiếp cho tổ quốc, làm rạng danh cho dân tộc Việt, giúp nhiều sinh viên nhận được học bổng tiến sĩ tại nước ngoài.
Trong điều kiện hiện nay, tôi cho rằng nền khoa học Việt Nam chưa thể tận dụng một cách hiệu quả những nhà khoa học này. Trong số này, có thể kể đến GS Ngô Bảo Châu (Viện nghiên cứu cao cấp Princeton, USA) hiện nay đang đuợc đề cử giải Fields (giải thưởng danh giá nhất cho các nhà toán học, tương đương với giải Nobel), GS Vũ Hà Văn (Rutgers University), GS Đỗ Ngọc Minh (UIUC) và còn rất nhiều người làm khoa học khác nữa nữa, đều thuộc dạng du học sinh.
50% sẽ tự động về nước

Tôi nghĩ rằng: những người không kiếm được việc phù hợp sau PhD họ sẽ tự động về nước (số này sẽ là số lớn chắc sẽ không dưới 50%), còn những người có khả năng kiếm việc giảng dạy/nghiên cứu cứ cho họ ở lại (nếu họ chọn như thế).
Cùng lúc đấy nâng dần môi trường làm việc trong nước lên, số chọn lựa trở về sẽ ngày càng lớn lên và số trụ lại được nước ngoài làm GS sẽ hỗ trợ và thúc đẩy nền khoa học trong nước. Tất cả các nước Trung Quốc, Ấn Độ họ cũng thực hiện như thế và đã có cả cộng đồng khoa học mạnh cả trong và ngoài nước. Rất nhiều người tốt nghiệp tiến sĩ của họ ở thời điểm này muốn về nước ngay sau khi PhD mà không cần những cái như luật chúng ta muốn ban hành. Các GS ở nước ngoài của họ cũng thường xuyên về lại quê hương hợp tác giảng dạy nghiên cứu. Họ cũng mời các GS từ nước họ sang làm nghiên cứu rất thuận lợi.
Tôi nghĩ rằng, chính sách quan trọng về nhân sự thế này cần tính toán cẩn thận, không khéo thì tác hại nhiều mà lợi trước mắt cũng không bền vững vì đội quân PhD về nước sẽ mất khả năng nghiên cứu rất nhanh (chỉ sau chừng 3-5 năm không làm khoa học là họ sẽ hoàn toàn lạc hậu với thế giới).
Bằng cấp PhD lúc đó sẽ không nói lên được gì cả vì gần như họ cũng giống những người làm khoa học trong nước. Chúng ta thử nhìn lại những PhD từ nước ngoài trở về, bao nhiêu phần trăm vẫn còn làm nghiên cứu và bao nhiêu phần trăm chỉ loay hoay vật lộn với cuộc sống thường nhật bằng các công việc khác?
Thu thuế hai lần

Theo quyết định này, các du học sinh đuợc yêu cầu nộp thuế cho nhà nước. Theo luật thuế, thu nhập của chúng tôi được phân loại là mức thu nhập cao, và phải nộp thuế 40%, dù rằng đó là mức lương thấp dưới mức nghèo đói ở Mỹ. Ví dụ một người làm nghề lau chùi nhà vệ sinh của khoa tôi ở Mỹ sẽ kiếm được 3000$ một tháng, một mức sống nghèo khổ ở Mỹ nhưng lại là vương giả nếu tính theo thu nhập ở Việt Nam.
Sự bất cập hiển nhiên là, khi chúng tôi nhận lương ở nước ngoài thì nghiễm nhiên phải nộp thuế cho nhà nước sở tại. Vậy chúng tôi sẽ bị truy thu thuế tất cả hai lần, một lần ở Mỹ, và thêm một lần 40% nữa ở Việt Nam?
Điều này là rất vô lý và bất cập. Quy định này chưa có tiền lệ và không có ở đâu cả.
Và tại sao "đặc quyền" được đóng thuế thu nhập hai lần chỉ áp dụng với các du học sinh chứ không phải là đối với những người theo diện xuất khẩu lao động?
Mức áp thuế: Ở Việt Nam, mức lương 5 triệu bắt đầu phải đóng thuế và mức lương 10-20 triệu bắt đầu được coi là cao. Tuy nhiên, mức lương 3000$/tháng được coi là thu nhập thấp ở các nước phát triển. Người nhận mức lương này phải cố gắng xoay xở bằng cách ở chung trong những căn nhà dành cho sinh viên giá rẻ, tối thiểu hóa mọi chi tiêu.
Nếu áp thuế thu nhập cao, 2 lần đồng nghĩa với việc xóa bỏ hết mọi dự định tương lai, không mua sắm, sẽ không nhà cửa khi trở về Việt Nam.
Mức thu nhập đó và mức thuế cao, thuế 2 lần cũng đồng nghĩa người này không thể đủ khả năng đảm bảo một cuộc sống ở mức tối thiểu cho vợ con, gia đình trong thời gian ở nước ngoài. Điều này góp thêm phần tạo ra sự không công bằng trong xã hội, nhất là đối với giới khoa học vốn chưa có chính sách đãi ngộ xứng đáng, thường làm việc rất vất vả và có thu nhập thấp hơn so với mặt bằng chung nhiều ngành khác.

Llà những nhà khoa học, nhưng chúng tôi cũng là những con người của đời thường, phải có trách nhiệm với gia đình mình, có những nhu cầu cuộc sống cũng như nhu cầu phát triển trong tương lai.
Dù ở đâu, chúng tôi vẫn cách này, cách khác có nhiều đóng góp cho đất nước. Tuy nhiên, rõ ràng là nếu một con đường không thể đảm bảo cho chúng tôi một cuộc sống tốt cho bản thân và gia đình, chúng tôi khó có thể lựa chọn con đường đó. Một người có nhiều đóng góp có thể là kỹ sư, có thể là bác sỹ, có thể tiếp tục theo đuổi con đường học thuật, có thể công tác tại đơn vị này, đơn vị khác. Đó là lựa chọn cá nhân.

Kết luận
Rõ ràng, dự thảo có quá nhiều điều bất cập, chỉ mang lại lợi ích trước mắt là thu hút được nguồn nhân lực trước mắt nhưng lại gây nên tác hại lâu dài.
Hơn nữa, với một dự thảo có quá nhiều kẽ hở sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tiêu cực nảy sinh trong quá trình thực hiện.
Đây là một điều không thể tránh khỏi khi muốn tách rời quyền lợi của lưu học sinh với các quyền lợi khác của công dân khác. Mong Bộ trưởng Bộ GD-ĐT có thời gian xem xét lại dự thảo cũng như tính khả thi.

Đỗ Đức Hạnh

http://vietnamnet.vn/giaoduc/200912/800tien-si-tuong-lai-kien-nghi-du-thao-quan-ly-du-hoc-883986/

vnmission
19-12-2009, 20:34
Khó tìm ứng viên... nhận học bổng du học

TTO - Trong hai ngày 18 và 19-12, hơn 140 nhà quản lý giáo dục, giáo sư các trường đại học, doanh nghiệp Canada và VN đã tham dự hội thảo tổ chức tại ĐHQG TP.HCM để nhìn nhận thực tế và tìm giải pháp cho hoạt động hợp tác giáo dục và nghiên cứu giữa VN - Canada.

Tại hội thảo, nhiều đại biểu đã nhìn nhận việc hợp tác giáo dục giữa hai nước trong thời gian qua chưa đạt được như mong muốn. Từ Đại học British Columbia (Canada), tiến sĩ Vương Thanh Sơn cho biết ông thành lập những dự án về công nghệ thông tin, “giáo dục ảo” (giáo dục qua điện thoại di động, Internet…) cho các sinh viên VN.

Ngoại ngữ quá yếu

Tuy nhiên, ông Sơn lo ngại là chất lượng giáo dục ở VN “chưa được đề cập một cách thỏa đáng”. Ông dẫn chứng sinh viên trong những năm gần đây tốt nghiệp nhiều hơn nhưng chưa đáp ứng được những yêu cầu từ nhà tuyển dụng. Nhất là rất ít sinh viên có khả năng ngang bằng với sinh viên các nước. Ông cho rằng “còn nhiều vấn đề cần thay đổi trong công tác dạy học.

Cũng là một Việt kiều sống ở Canada lâu năm, ông Lê Quốc Sinh, giám đốc Mạng lưới giáo dục VN - Canada, đơn vị đồng tổ chức hội thảo với ĐHQG TP.HCM, cho rằng hạn chế lớn nhất của sinh viên VN là ngoại ngữ. “Tiếng Anh yếu quá, tiếng Pháp lại càng yếu hơn” - ông nói. Điều hạn chế thứ hai mà ông đề cập chính là tính tự lập của sinh viên VN chưa cao: “Giáo sư phải dìu dắt, hướng dẫn từng li từng tí. Thông thường nghiên cứu sinh tiến sĩ thì không ai dìu dắt hết nhưng điều đó ngược lại đối vơi nghiên cứu sinh của chúng ta”.

Là người đã dành 9 năm cho các chương trình hợp tác giáo dục giữa hai nước, ông Sinh bày tỏ “ước nguyện đào tạo được nhiều nghiên cứu trẻ và mang kiến thức về VN”. Ông cho rằng chỉ cần 50% nghiên cứu sinh về nước phục vụ “là tốt rồi”. “Không lo lắm về chảy máu chất xám. Điều quan trọng là hệ thống và các chính sách thu hút nghiên cứu sinh về nước tham gia nghiên cứu cũng đào tạo lại cho các giảng viên trẻ trong nước. Điều này, cái cần là ở môi trường, cơ chế…” - ông nói.

Nhiều hoạt động hỗ trợ

Trong khi đó, giáo sư Lan Giễn, một người Canada gốc Việt được biết đến như chuyên gia vận động tài trợ cho các dự án hỗ trợ chăm sóc sức khỏe cho người nghèo ở VN, cho biết bà đang có dự án 10 triệu USD để hỗ trợ đào tạo, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo trên khắp thế giới, trong đó VN có khoảng 60 suất.

Tuy nhiên, nữ giáo sư này cho rằng hiện đang rất khó khăn trong việc tìm ứng viên VN để đưa sang Canada đào tạo về lĩnh vực này vì không có nhiều ứng viên đáp ứng được yêu cầu tiếng Anh. Một điều mà giáo sư Giễn băn khoăn cũng rất đáng chú ý: “Chúng tôi cũng như các tổ chức đào tạo khác mong muốn được làm việc với các khoa trong các trường đại học nhưng nhiều trường chỉ cho làm việc với… trung tâm hợp tác quốc tế”.

Với mong muốn thúc đẩy hơn nữa hợp tác giáo dục giữa hai nước, ông Jason Latorre, tổng lãnh sự quán Canada tại TP.HCM, cho biết đang triển khai các hoạt động đẩy mạnh hợp tác giáo dục giữa hai nước trong năm 2010. Cụ thể là tuần giáo dục Canada, hội chợ giáo dục dành cho những trường đại học lớn từ nhiều tỉnh của Canada tham dự, đẩy mạnh hoạt động của mạng lưới giáo dục VN - Canada, thành lập các trung tâm tư vấn giáo dục Canada tại VN, đẩy nhanh tiến độ cấp visa cho sinh viên VN đến Canada học tập và có hệ thống theo dõi tình hình học tập của sinh viên đến học trên đất nước Canada…

HÀ BÌNH
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=353982&ChannelID=13

vnmission
19-12-2009, 22:24
Bộ mặt mới của đại học Việt Nam?

GS Phạm Duy Hiển, Tạp chí Tia Sáng tháng 10/2009

Hệ thống đại học ở một nước như Việt Nam phải phát triển theo một quỹ đạo tối ưu giữa số lượng và chất lượng. Cần mở rộng quy mô để thỏa mãn nhu cầu được học ngày càng cao của người dân (phương nằm ngang), đồng thời phải nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học (NCKH) ở một số trường trọng điểm, được xem như những chiếc máy cái cho nền khoa học và đại học nước nhà (phương thẳng đứng).

Đây là những đại học nghiên cứu theo các tiêu chí và chuẩn mực quốc tế. Tại đây người thầy phải nghiên cứu khoa học ở trình độ quốc tế, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường phải xây dựng được các trung tâm đào tạo và NCKH ngang tầm quốc tế - Centers of Excellence - được lãnh đạo bởi những nhà khoa học có vị trí trên mặt tiền khoa học - công nghệ của thế giới.

Theo đà tăng trưởng kinh tế của đất nước, tốc độ phát triển theo phương thẳng đứng (các trường đại học nghiên cứu) phải nhanh hơn tốc độ theo phương nằm ngang (mở rộng quy mô đào tạo).

Nếu không, các trường đại học sẽ thiếu nhân lực, chất lượng ngày càng sa sút, và xu hướng thương mại hóa sẽ lên ngôi, phá nát cả hệ thống. Nguy cơ này đang dần lộ diện ở nước ta. Bởi chúng ta chưa quyết tâm xây dựng một bộ mặt mới cho đại học Việt Nam theo những tiêu chí được thế giới nhìn nhận.

Bức tranh NCKH của các nước Đông Á và Đông Nam Á

Số lượng công bố quốc tế (CBQT) và số trích dẫn (citation) được xem như thước đo năng lực khoa học của quốc gia. Tiêu chí này cũng được dùng để đánh giá và xếp hạng các trường đại học ở nhiều nước và trên thế giới.

Song những tiêu chí này lại chưa được nhìn nhận đúng mức ở nước ta. Chỉ mới gần đây chúng ta mới chấp nhận chúng trong nghiên cứu cơ bản. Các nghiên cứu ứng dụng, công nghệ, xã hội, nhân văn, vốn áp đảo trên các tạp chí khoa học quốc tế và trực tiếp tác động đến đời sống, kinh tế của đất nước vẫn còn bỏ ngỏ về mặt kiểm định chất lượng.

Bức tranh NCKH của 11 nước Đông Á (Hình 1) cho thấy không có bất cứ lý do nào để khước từ CBQT nếu chúng ta muốn đất nước sánh vai với các nước tiên tiến trong khu vực

74814
Hình 1

Tính trên một triệu dân, Singapore đứng đầu khu vực về CBQT, gấp 170 lần Việt Nam. Theo sát sau Singapore là Đài Loan, Hàn Quốc, HongKong và Nhật Bản, năm nước này tạo thành nhóm tiên tiến nhất trong khu vực. Dưới cùng trở lên là Indonesia, Philippines và Việt Nam. Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia thuộc nhóm giữa, nhưng vẫn vượt khá xa ba nước vừa nêu trong nhóm cuối. Năm 2008, 65 triệu dân Thái Lan công bố 3904 công trình, trong khi đó Việt Nam đông dân hơn (87 triệu) nhưng chỉ mới có 806 công trình.

Thành tích CBQT của Việt Nam khá hơn Indonesia và Philippines, mặc dù thu nhập bình quân của hai nước này cao hơn ta gấp hai lần. Hơn nữa, trong nhiều năm liền, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao về công bố quốc tế, 16%/năm, ngang với tốc độ của Thái Lan và Malaysia.

Vậy điều gì làm chúng ta lo ngại?

Thứ nhất, các trường đại học chỉ chiếm 55% số CBQT của Việt Nam trong khi ở Thái Lan nghiên cứu khoa học tập trung chủ yếu ở các trường đại học (95%). Gắn NCKH với đào tạo đại học là ưu thế của các nước đi sau mà ta không tận dụng. Xem nhẹ sự gắn kết này dẫn đến chất lượng đại học sa sút và những tri thức khoa học mới nhất không được lan tỏa đến cộng đồng để góp phần nâng cao dân trí.

Thứ hai, CBQT của ta còn dựa quá nhiều vào nước ngoài, những công trình do nội lực tạo ra, và đồng thời gắn kết hơn với đời sống của đất nước, chỉ chiếm một phần ba, còn lại chủ yếu làm ở các nước tiên tiến thông qua con đường đào tạo hoặc hợp tác, có nội dung liên quan trực tiếp với đất nước họ.

Trong khi đó, tỷ lệ công trình nội lực ở nhiều nước khác đều cao hơn nhiều, Philippines: 55%, Thái Lan: 65%, Malaysia: 75%, Trung Quốc: 80%, chứng tỏ nhiều nước trong vùng đã xây dựng được tiềm lực khoa học đủ mạnh để giải quyết những đề tài khoa học do kinh tế và đời sống của họ đặt ra.

Thứ ba, những công trình do nội lực được trích dẫn ít hơn hẳn so với những công bố có nước ngoài hợp tác (thậm chí có công trình hầu như không được ai trích dẫn), phản ảnh sự khác biệt quá xa giữa trình độ khoa học trong và ngoài nước.

Thứ tư, dẫn đầu danh sách các công trình do nội lực của Việt Nam là Toán và Vật lý lý thuyết, hai ngành được đầu tư rất ít và hầu như không cần những cơ sở hạ tầng nghiên cứu tốn kém. Ở các nước khác tình hình hoàn toàn ngược lại.

Ở Đại học Chulalongkorn chẳng hạn, CBQT do nội lực tập trung vào các lĩnh vực ứng dụng gắn liền trực tiếp đến đời sống như hóa học, y dược, công nghệ v.v... Trên thực tế chúng ta đầu tư không ít cho khoa học ứng dụng, công nghệ, xã hội nhân văn v.v...., song đầu ra trên các diễn đàn quốc tế chỉ lác đác.

Bốn đặc điểm trên đây là bất bình thường, không giống những gì diễn ra ở các nước khác, chúng khoét sâu thêm những yếu kém bên trong những thành tích CBQT “đúng quy luật” của Việt Nam. Đây là những vấn đề cần được nhìn nhận và giải quyết để đại học và khoa học Việt Nam có tư thế ngày càng vững vàng hơn trong quá trình hội nhập với thế giới.

Hội nhập quốc tế có nghĩa là đại học của nước ta phải bước lên các sân chơi quốc tế với đầy đủ tư thế, đặc biệt là các sân chơi về NCKH.

Bản thân ta phải đủ mạnh mới hội nhập được với thế giới

Có lẽ nên bắt đầu từ câu hỏi tại sao không ít ấn phẩm khoa học nội địa có chất lượng tốt lại không thể xuất hiện trên các tạp chí quốc tế? Mà chỉ nơi đây mới có thước đo tương đối đúng đắn chất lượng NCKH và giảng dạy đại học.

Trước hết, phải nói ngay rằng từ một công bố nội địa đến CBQT trên tạp chí có uy tín là cả một khoảng cách rất xa, không dễ vượt qua đối với nhiều người làm khoa học ở nước ta. Trên đoạn đường này lại có rất nhiều rào cản làm nản lòng họ, dù họ biết rất rõ cái đích “quốc tế” cần vươn tới ấy giá trị đến nhường nào. Kinh nghiệm cho thấy từ khi hoàn thành một đề tài NCKH được nghiệm thu tốt ở Việt Nam cho đến khi nội dung khoa học ấy được xuất hiện trên tạp chí quốc tế là khoảng thời gian rất dài, đầy gian nan thách thức.

Nhưng đây cũng chính là khoảng thời gian thể hiện tính chuyên nghiệp cũng như đẳng cấp của nhà khoa học. Đây là lúc nhà khoa học phải mang những nội dung nghiên cứu của mình đặt lên mặt tiền tri thức nhân loại.

Đối thoại với các phản biện đồng nghiệp quốc tế sừng sỏ nhất còn chính là dịp để khẳng định kỹ năng trình bày, lập luận logic, vươn tới mức chính xác cao nhất v. v..., những kỹ năng thiết yếu nhất của các thầy giáo đại học làm nhiệm vụ truyền đạt kiến thức khoa học cho sinh viên. Lại một lần nữa ta thấy tại sao các trường đại học trên thế giới lại yêu cầu các thầy giáo phải có CBQT.

Những khó khăn trên đây giải thích vì sao chưa có một tạp chí nội địa nào của nước ta, dù xuất bản bằng tiếng Anh đã lâu, được lọt vào danh sách ngót một vạn tạp chí quốc tế hiện nay; vì sao gần hai phần ba công bố quốc tế của Việt Nam được thực hiện tại các nước tiên tiến (qua các chuyến đi công tác, thực tập ở nước ngoài), hoặc được thực hiện tại Việt Nam nhưng lại do nhà khoa học nước ngoài chủ trì.

Tuy nhiên, cũng không ít nhà khoa học Việt Nam có công bố quốc tế đều đặn, một số ngành như Toán và Vật lý công bố nhiều hơn hẳn các ngành khác, đặc biệt là các ngành công nghệ và khoa học xã hội, nhân văn, và cũng nhiều hơn hẳn một số nước Đông Nam Á. Lý giải chuyện này chắc sẽ giúp chúng ta nhận ra những ưu việt của chính mình và tìm lối đi nhanh đến các sân chơi quốc tế về khoa học và đại học.

Từ thực trạng trên dễ thấy ngay rằng cần có tư duy mới về cách tổ chức hoạt động NCKH và giảng dạy đại học ở nước ta. Phải phấn đấu xây dựng những nhóm nghiên cứu mạnh (Center of Excellence) ở các trường đại học, như những đơn vị cấu trúc hoàn toàn mới của nền khoa học và đại học Việt Nam.

Hội nhập khoa học và đại học Việt Nam với thế giới chính là xác lập chỗ đứng của các nhóm nghiên cứu này trong cộng đồng khoa học quốc tế.

Đòi hỏi một nghiên cứu sinh có ít nhất một công bố quốc tế trước khi trình luận án sẽ là bất khả thi nếu người thầy không có công bố quốc tế đều đặn, không có chỗ đứng nào đó trong cộng đồng quốc tế.

Do đó, trong việc xét duyệt và phong hàm giáo sư, công bố quốc tế phải là tiêu chí quan trọng nhất, thậm chí ở nhiều nước còn là tiêu chí độc tôn. Có thể việc này chưa làm được đối với các thế hệ trước, nhưng không có lý do gì minh chứng cho việc tiếp tục duy trì tư duy này cho các thế hệ từ nay về sau. Không thể vì hư danh của một số người trong thế hệ này mà làm hỏng các thế hệ tương lai.

Cho nên chính thức chấp nhận công bố quốc tế như một tiêu chí cho giáo sư và phó giáo sư sẽ là bước đột phá đầu tiên cần làm ngay. Từ đó sẽ còn nhiều bước đột phá tiếp theo để tác động đến toàn bộ cách quản lý và tạo ra môi trường lành mạnh cho NCKH và giảng dạy đại học.

Tuy nhiên, những bước đột phá ấy vẫn chưa đủ. Về phía người NCKH cũng phải cố gắng vượt qua chính mình mới có đủ hành trang bước lên các sân chơi quốc tế.

Vượt qua chính mình

Muốn có CBQT, trước hết phải thường xuyên đọc các tạp chí quốc tế cùng chuyên ngành. Có đọc mới thấy mình nghiên cứu đúng hướng, đi tìm đúng cái mới, và tự lượng định liệu mình đủ sức chen chân vào các sân chơi quốc tế hay chưa, còn phải tiếp tục hoàn thiện mình thêm ở những khâu nào nữa. Thiếu tạp chí quốc tế để các nhà khoa học tra cứu là khó khăn cần phải được giải quyết ngay ở cấp quốc gia hiện nay.

Phải đọc những gì các đồng nghiệp quốc tế đã viết ra trong ít nhất 5 năm gần đây là điều kiện tiên quyết trước khi tiến hành một đề tài nghiên cứu. Gần đây Trung tâm Thông tin khoa học thuộc Bộ KH&CN đã mua được quyền truy cập vào cơ sở dữ liệu của Thomson Reuters, ISI Web of Knowledge http://db.vista.gov.vn/login.aspx, qua đó có đầy đủ thông tin cập nhật cho một vạn đầu tạp chí khoa học được xem là có uy tín nhất hiện nay trên thế giới.

Vào trang web này ta có thể tìm thấy rất nhiều thông tin liên quan đến hoạt động NCKH của từng nước, từng cơ sở nghiên cứu, trường đại học, số lượng và chất lượng (số lần được trích dẫn) và bản tóm tắt từng công trình của từng nhà nghiên cứu. Trang mạng Scholar Google, với khẩu hiệu “hãy đứng trên vai những người khổng lồ” cũng rất phổ dụng và hữu ích.

Chẳng những đọc công trình các đồng nghiệp cùng chuyên ngành mà còn phải tìm cách đối thoại với họ qua email, thông qua các kênh hợp tác quốc tế để mời chuyên gia nước ngoài đến làm việc, và nhất là trực tiếp gặp gỡ họ qua các hội nghị quốc tế. Đây là những diễn đàn quan trọng, dễ tiếp cận, cho nên cần khuyến khích và cấp kinh phí đủ để các nhà nghiên cứu nước ta có điều kiện hội nhập với đồng nghiệp khắp năm châu.

Viết bài đăng trên các tạp chí quốc tế có nghĩa là đối thoại với đồng nghiệp quốc tế. Ta luôn tưởng tượng có người đang nghiêm khắc “vặn vẹo” mình sau từng câu chữ được viết ra.

Hiện nay phần lớn các tạp chí quốc tế đều bằng tiếng Anh. Nên thạo tiếng Anh là điều kiện bắt buộc để tòa soạn nhận đăng công trình. Ở đây không hề có sự nhân nhượng nào về ngôn ngữ, một công trình có giá trị về nội dung học thuật vẫn bị từ chối nếu viết tiếng Anh không ra hồn. Lại không nên nghĩ rằng có thể viết bài báo bằng tiếng Việt rồi nhờ ai đó dịch ra tiếng Anh, bởi ngôn ngữ chuyên môn rất khác ngôn ngữ thông dụng, nhiều khi mỗi tạp chí lại có những yêu cầu và phong cách riêng.

Trên thực tế, người nghiên cứu phải suy nghĩ bằng tiếng Anh, chứ không phải theo tiếng mẹ đẻ, rồi sau đó chuyển thể ra tiếng Anh. Ngoại ngữ là rào cản rất lớn đối với những người nghiên cứu khoa học xã hội, nhân văn.

Vượt qua rào cản ngôn ngữ là cả một quá trình luyện tập. Kinh nghiệm cho thấy cần phải học tiếng Anh từ đầu, bài bản, nếu không rất khó thành công. Đây là khó khăn của rất nhiều nhà khoa học lớn tuổi muốn khẳng định chỗ đứng của mình trong cộng đồng quốc tế. Cho nên cần khuyến khích một số trường đại học chất lượng cao giảng dạy bằng tiếng Anh.

Tin rằng một thế hệ mới các thầy giáo đại học Việt Nam sẽ xuất hiện, họ có thể nói chuyện với đầy đủ tư thế cùng các đồng nghiệp nước ngoài. Họ sẽ là bộ mặt mới của đại học Việt Nam. Còn thế hệ cũ đang đóng vai các lão làng: hãy vượt qua chính mình để thúc đẩy nhanh chóng một thế hệ mới!