huybuixuan
14-05-2010, 11:53
Chiêu quân xuất tái:
Nam lai trình tận Bắc lai trình
Nam Bắc na kham trướng biệt tình.
Vạn lý Hán thiên hoa hữu lệ,
Bách niên Hồ địa mã vô thanh.
Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão,
Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh.
Phân phó quân vương an chẩm ngoạ,
Sầu thành nhất phiến thị trường thành
Chiêu quân qua ải (Quách Tấn dịch)
Bắc trình dõi bước dứt Nam trình
Nam Bắc đường chia mối thảm đoanh
Trời Hán tuôn dòng hoa khóc tủi
Đất Hồ im tiếng ngựa reo binh
Áo cài xuân muộn bơ phờ dáng
Đàn gảy trăng khuya não nuột tình
Nhắn nhủ cung rồng yên giấc ngự
Sầu thành một bức vững trường thành
92870
Câu chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân Cống Hồ trở thành một điểntích. Tồn tại nhiều dị bản, trong đó có nhiều chi tiết còn mâu thuẫn. Nổi tiếng hơn cả là bản kể theo những tài tiệu của nhà sử học Ngô Quân (469-520):
" Vì số cung phi trong hậu cung của vua Hán Nguyên Đế quá đông, nên nhà vua ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình cáccung phiđể nhà vua chọn. Các cung phi thường lo lót tiền cho họa sĩ để được vẽ cho đẹp, mong vua để ý tới. Chiêu Quân từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ, hậu quả bức chân dung nàng bị chấm thêm một nốt ruồi dưới mí mắt (thương phu chích lệ - hay còn gọi là nốt ruồi sát phu), nên nàng không được Hán Nguyên Đế để mắt tới.
Một hôm hoàng hậu tình cờ biết tới Chiêu Quân qua tiếng đàn lâm li ai oán của nàng. Bà đưa Chiêu Quân tới gặp Hán Nguyên Đế. Hán Nguyên Đế ngỡ ngàng vì sắc đẹp của nàng, phong Chiêu Quân làm Tây phi. Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng nề.
Thời bấy giờ Hung Nô là nước lân bang thường xuyên mang quân sang quấy nhiễu. Mao Diên Thọ bị Hán Nguyên Đế quở trách, đem lòng oán hận Chiêu Quân, lấy chân dung Chiêu Quân nạp cho thiền vu (vua) Hung Nô là Hô Hàn Tà. Vua Hung Nô say đắm sắc đẹp của nàng, cất quân sang đánh, buộc Hán Nguyên Đế phải cống nạp Chiêu Quân thì mới bãi binh. Hán Nguyên Đế đành phải đem Chiêu Quân sang cho Hung Nô. (Điểm này không khớp với lịch sử Hung Nô, do từ thời Hô Hàn Tà thì các thiền vu đã chịu nộp cống phẩm cho nhà Hán)
Truyền thuyết "Chiêu quân xuất tái" ("Đi đến biên cương") nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con nhạn bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ "lạc nhạn" trong câu "Trầm ngư lạc nhạn" do đó mà có.
Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn Môn Quan trở thành điển tích Hồ Cầm."
Ngôi làng quê hương của nàng ngày nay mang tên là làng Chiêu Quân. Dòng suối, nơi tương truyền nàng từng ra giặt vải trước khi được tuyển vào hoàng cung, được đặt tên là Hương Khê (suối thơm) để tưởng nhớ nàng. Trong miền Nội Mông Cổ có hai địa điểm được cho là mộ của Chiêu Quân, một gần Hohhot và một gần Bao Đầu, cả hai đều xanh ngắt cỏ tươi, nên đều được gọi là Thanh Trủng (mồ xanh).
(st)
Nam lai trình tận Bắc lai trình
Nam Bắc na kham trướng biệt tình.
Vạn lý Hán thiên hoa hữu lệ,
Bách niên Hồ địa mã vô thanh.
Nhất đoàn la ỷ thương xuân lão,
Kỷ khúc tỳ bà tố nguyệt minh.
Phân phó quân vương an chẩm ngoạ,
Sầu thành nhất phiến thị trường thành
Chiêu quân qua ải (Quách Tấn dịch)
Bắc trình dõi bước dứt Nam trình
Nam Bắc đường chia mối thảm đoanh
Trời Hán tuôn dòng hoa khóc tủi
Đất Hồ im tiếng ngựa reo binh
Áo cài xuân muộn bơ phờ dáng
Đàn gảy trăng khuya não nuột tình
Nhắn nhủ cung rồng yên giấc ngự
Sầu thành một bức vững trường thành
92870
Câu chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân Cống Hồ trở thành một điểntích. Tồn tại nhiều dị bản, trong đó có nhiều chi tiết còn mâu thuẫn. Nổi tiếng hơn cả là bản kể theo những tài tiệu của nhà sử học Ngô Quân (469-520):
" Vì số cung phi trong hậu cung của vua Hán Nguyên Đế quá đông, nên nhà vua ra lệnh cho các họa sĩ phải vẽ hình cáccung phiđể nhà vua chọn. Các cung phi thường lo lót tiền cho họa sĩ để được vẽ cho đẹp, mong vua để ý tới. Chiêu Quân từ chối đút lót cho họa sĩ là Mao Diên Thọ, hậu quả bức chân dung nàng bị chấm thêm một nốt ruồi dưới mí mắt (thương phu chích lệ - hay còn gọi là nốt ruồi sát phu), nên nàng không được Hán Nguyên Đế để mắt tới.
Một hôm hoàng hậu tình cờ biết tới Chiêu Quân qua tiếng đàn lâm li ai oán của nàng. Bà đưa Chiêu Quân tới gặp Hán Nguyên Đế. Hán Nguyên Đế ngỡ ngàng vì sắc đẹp của nàng, phong Chiêu Quân làm Tây phi. Mao Diên Thọ bị khiển trách nặng nề.
Thời bấy giờ Hung Nô là nước lân bang thường xuyên mang quân sang quấy nhiễu. Mao Diên Thọ bị Hán Nguyên Đế quở trách, đem lòng oán hận Chiêu Quân, lấy chân dung Chiêu Quân nạp cho thiền vu (vua) Hung Nô là Hô Hàn Tà. Vua Hung Nô say đắm sắc đẹp của nàng, cất quân sang đánh, buộc Hán Nguyên Đế phải cống nạp Chiêu Quân thì mới bãi binh. Hán Nguyên Đế đành phải đem Chiêu Quân sang cho Hung Nô. (Điểm này không khớp với lịch sử Hung Nô, do từ thời Hô Hàn Tà thì các thiền vu đã chịu nộp cống phẩm cho nhà Hán)
Truyền thuyết "Chiêu quân xuất tái" ("Đi đến biên cương") nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con nhạn bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ "lạc nhạn" trong câu "Trầm ngư lạc nhạn" do đó mà có.
Khi qua Nhạn Môn Quan, cửa ải cuối cùng, Chiêu Quân được cho là đã cảm tác nhiều bài thơ rất cảm động. Tiếng đàn của Chiêu Quân ở Nhạn Môn Quan trở thành điển tích Hồ Cầm."
Ngôi làng quê hương của nàng ngày nay mang tên là làng Chiêu Quân. Dòng suối, nơi tương truyền nàng từng ra giặt vải trước khi được tuyển vào hoàng cung, được đặt tên là Hương Khê (suối thơm) để tưởng nhớ nàng. Trong miền Nội Mông Cổ có hai địa điểm được cho là mộ của Chiêu Quân, một gần Hohhot và một gần Bao Đầu, cả hai đều xanh ngắt cỏ tươi, nên đều được gọi là Thanh Trủng (mồ xanh).
(st)