Cua biển (mud crab, green crab hay mangrove crab; ở Việt Nam còn gọi là cua sú hay cua bùn) gồm các loài thuộc giống Scylla phân bố rộng rãi ở vùng Ấn Độ- Tây Bình Dương (Indo-West Pacific). Đây là đối tượng có giá trị kinh tế đối với nghề khai thác ven biển quy mô nhỏ ở nhiều nước Châu Á trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới.
Đặc điểm hình thái của cua biển:
Cua có thân hình dẹp theo hướng lưng bụng. Toàn bộ cơ thể được bao bọc trong lớp vỏ kitin dầy và được chia thành 2 phần”
Phần đầu ngực: Là sự liên hợp của 5 đốt đầu và 8 đốt ngực nằm phía dưới mai. Do ranh giới giữa các đốt không rõ ràng nên việc phân biệt các đốt có thể dựa và số phụ bộ trên các đốt: đầu gồm có mắt, anten, và phần phụ miệng. Mai cua to và phía trước có nhiều răng. Trước mai có hai hốc mắt chứa mắt có cuống và 2 cặp râu nhỏ và râu lớn. Trên mai chia thành nhiều vùng bằng những rãnh trung gian, mỗi vùng là vị trí của mỗi cơ quan. Mặt bụng của phần đầu ngực có các tấm bụng và làm thành vùng lõm ở giữa để chứa phần bụng gập vào. Cua đực có 2 lỗ sinh dục nằm ở gốc của đôi chân bò thứ 5 và dính và đó 1 dương vật ngắn. Cua cái có 2 lỗ sinh dục nằm ở gốc đôi chân bò thứ 3.
Phần bụng: Phần bụng của cua gấp lại phía dưới phần đầu ngực. Phần bụng phân đốt và tùy giới tính, hình dạng và sự phân đốt cũng không giống nhau
+Con cái trước thời kỳ thành thục sinh dục yếm có hình hơi vuông, khi thành thục yếm trở nên phình rộng với 6 đốt bình thường.
+Con đực có yếm hẹp hình chữ V, chỉ có các đốt 1,2 và 6 thấy rõ còn các đốt 3,4,5 liên kết với nhau.
Đuôi có 1 đốt nhỏ nằm ở tận cùng của phần bụng với 1 lỗ là đầu sau của ống tiêu hóa. Bụng cua dính vào phần đầu ngực bằng 2 khuy lõm ở mặt trong của đốt 1, móc vào 2 nút lồi bằng kitin nằm trên ức cua.
Đặc điểm phân bố
Cua biển thường được tìm thấy ở các cửa sông và môi trường ven biển có vật bám. Nhìn chung, các quần thể lớn thường sống gắn liền với rừng ngập mặn đã phát triển, đặc biệt là ở vùng cửa sông.
Cua là một loài rất năng động, có khả năng bò trên cạn và di chuyển rất xa. Chúng hoạt động trung bình 13h/ngày và gần như suốt đêm. Quảng đường trung bình mà cua di chuyển trong 1 đêm trung binhg là 461m, dao động từ 219-910m và khỏang cách dời chỗ trung bình khi đánh dấu-bặt lại từ 56,6-111,6m. Sự phân bố của cua trong tự nhiên có liên quan đến dòng chảy, trong đó vận tốc thích hợp cho sự phân bố của chúng là 0,06-1,6 m/giây.
Đặc điểm sinh dưỡng của cua biển:
Tính ăn của cua biến đổi theo giai đoạn phát triển. Trong giai đoạn ấu trùng cua ăn động vật phù du. Cua con chuyển dần sang ăn tạp như rong tảo, giáp xác, nhuyễn thể, các hay ăn ngay cả xác chết động vật. Cua tiền trưởng thành ăn nhiều bọn hai mảnh vỏ vá phúc túc (động vật chân bụng). Cua lớn hơn thường ăn cua con và cá