Xem riêng 01 Bài
  #16  
Cũ 10-12-2010, 11:08
hoang.le's Avatar
hoang.le hoang.le vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
 
Ngày tham gia: 09-07-2010
Đến từ: Hà Nội
Bài Viết : 78
Cảm ơn: 2,782
Đã được cảm ơn 783 lần trong 92 Bài
Mặc định 7. Dân tộc Chu Ru

DÂN TỘC CHU RU


Tên gọi khác : Cho Ru, Kru, Thượng

Nhóm ngôn ngữ : Malayô - Pôlinêxia (ngữ hệ Nam đảo), gần với tiếng Chăm. Có một bộ phận người Chu Ru sống gần với người Cơ Ho nên nói tiếng Cơ Ho (nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer).

Dân số : 16.972 người (ước tính năm 2003)

Cư trú : Phần lớn ở Ðơn Dương (Lâm Ðồng), số ít ở Bình Thuận

Có lẽ xa xưa, tổ tiên người Chu Ru là một bộ phận trong khối cộng đồng Chăm. Về sau, họ chuyển lên miền núi sống biệt lập với cộng đồng gốc nên thành người Chu Ru.

Đặc điểm kinh tế - Hoạt động sản xuất : Người Chu Ru sống định canh định cư với nghề làm ruộng từ lâu đời. Ruộng ở đây có hai loại: ruộng sình và ruộng khô. Việc làm thuỷ lợi bằng mương, phai, đê, đập được chú trọng. Vườn có trên rẫy và vườn ở gần nhà. Giờ đây đồng bào còn trồng dâu nuôi tằm, đời sống tương đối ổn định. Ngoài trồng trọt, người Chu Ru còn chăn nuôi trâu, bò, lợn, dê và nhiều loại gia cầm. Người Chu Ru cũng biết đan lát các đồ dùng gia đình bằng mây tre, tự rèn các công cụ sản xuất như liềm, cuốc, dao… Có các làng nổi tiếng về nghề gốm. Săn bắn, hái lượm và đánh cá đem lại nguồn thức ăn đáng kể hàng ngày.

Tổ chức cộng đồng - Quan hệ xã hội : Làng (Plây) của người Chu Ru bao gồm nhiều dòng họ; gần đây có cả những người khác tộc đến cư trú. Đứng đầu làng là Pô plây (trưởng làng) do bầu ra, không mang tính cha truyền con nối. Người có uy tín về tinh thần sau trưởng làng là thầy cúng. Quan hệ chủ đạo trong cơ cấu xã hội Chu Ru là gia đình mẫu hệ với vai trò được tôn vinh là người phụ nữ, người thừa kế của gia đình, dòng họ mẹ. Nếu nhìn vào bộ máy tự quản ở các làng thì ta thấy người đàn ông đang đứng mũi chịu sào trong mọi lĩnh vực để cho xã hội được vận hành theo định hướng của ông bà xưa. Thực ra, họ đã hành động theo ý chí của người vợ, người chủ nhân ngôi nhà mà họ đang cư ngụ theo tục cưới chồng. Xã hội đã có sự phân hoá giàu, nghèo nhưng không có sự xung đột giữa hai tầng lớp ấy trong làng.

Hôn nhân gia đình : Hôn nhân một vợ, một chồng. Người phụ nữ chủ động trong quan hệ lứa đôi. Việc "hỏi chồng" và "cưới chồng" được thực hiện qua những thông tin ở việc trao tặng chàng trai chiếc nhẫn và chuỗi hạt cườm. Sau lễ cưới, người con gái phải ở dâu nửa tháng tại gia đình chồng để chờ lễ đón rể về nhà. Sau đó, người chồng ở rể phía nhà gái.

Tục lệ ma chay : Người Chu Ru theo tục thổ táng tại nghĩa địa chung của làng. Xưa kia, việc ma chay thường được tổ chức linh đình với lễ hiến sinh trâu bò.

Văn hóa - Văn nghệ : Người Chu Ru có vốn dân ca, ca dao tục ngữ phong phú, trong đó nổi bật chủ đề ca tụng chế độ mẫu hệ và vai trò của người phụ nữ trong xã hội cổ truyền. Trong kho tàng văn nghệ dân gian có hàng loạt trường ca, truyện thơ có giá trị nghệ thuật cao và là nguồn sử liệu quý giá, có nhiều nhạc cụ: chiêng cồng, trống, sáo, đàn, kèn… Ngoài ra còn một số nhạc cụ khác như: r’tông, kwao, terlia là những nhạc cụ đặc sắc của người Chu Ru. Trong hội hè, nhạc cổ truyền Chu Ru thường được cất lên cùng với vũ điệu tamga nổi tiếng.

Nhà cửa : Người Chu Ru ở nhà sàn làm bằng tre, gỗ, bương, mai, lợp bằng cỏ tranh. Đại gia đình người Chu Ru thường có 3-4 thế hệ, sống trong nhà dài, những gia đình thân thuộc thường xây cất nhà cửa gần gũi nhau. Việc dựng nhà mới được coi trọng với sự tập trung tâm lực của gia đình chủ và sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng làng. Khi khánh thành nhà mới và dọn về ở nhà mới, họ hàng và cả làng quây quần giúp đỡ. Họ tổ chức tiệc mặn để cầu cúng thần linh, thụ lộc và chia vui cùng gia chủ.

Trang phục : Nghề dệt không phát triển nên những sản phẩm của y phục như: váy, áo, khố, mền, địu... có được đều do trao đổi với các tộc láng giềng như: Chăm, Cơ Ho, Raglai, Mạ...

+ Trang phục nam : Quần trắng, áo dài đen, đầu vấn khăn trắng là bộ trang phục truyền thống của người đàn ông Chu Ru, thường chỉ mặc vào các dịp cưới xin, lễ hội, hay đi đám ma... Những sản phẩm này hầu hết họ mua lại của người Chăm.

+ Trang phục nữ : Một kiểu nữ phục truyền thống của dân tộc Chu Ru là váy và tấm choàng để hở một bên vai. Hầu hết trang phục của phụ nữ Chu Ru là do người Cơ Ho sản xuất.


Phương tiện vận chuyển : Chiếc gùi nan cõng trên lưng vẫn là phương tiện vận chuyển được sử dụng thường xuyên cho mọi người.

Ăn : Lương thực chính là gạo tẻ được nấu trong những nồi đất nung tự tạo. Lương thực phụ có ngô, khoai, sắn. Thức ăn có măng rừng, rau đậu, cá suối, chim thú săn bắn được. Thức uống có rượu cần và rượu cất. Nam nữ đều thích hút thuốc lá sợi bằng tẩu.

Thờ cúng : Thờ cúng tổ tiên và chỉ cúng ngoài nghĩa địa, trong nhà không có bàn thờ. Thờ nhiều thần liên quan đến các nghi lễ nông nghiệp.

Lễ tết : Một năm với chu kỳ canh tác ruộng nước, người Chu Ru có nhiều nghi lễ nông nghiệp khá phong phú như cúng thần đập nước, thần mương nước, thần lúa khi gieo hạt, ăn mừng lúa mới, cúng sau mùa thu hoạch… Đáng lưu ý là lễ cúng thần Bơ-mung (thần đập nước) vào tháng 2 âm lịch, dân làng thường hiến sinh dê. Và lễ cúng Yang Wer, một cây đại thụ ở gần làng, được coi là nơi ngự trị của các thần linh. Người ta thường làm những hình nộm dã thú bằng gỗ hay củ chuối để đặt dưới gốc cây.

Lịch : Người Chu Ru theo lịch âm, tính tháng chu kỳ canh tác nông nghiệp của tổ tiên xưa.

Học : Trước kia, người Chu Ru không có chữ viết, mọi sự truyền đạt, thông tin đều qua truyền khẩu.

Chơi : Sở thích của trẻ em là đánh cù, chơi thả diều (diều bướm và diều sáo). Chúng cũng hay chơi trò kéo co, đi cà kheo, đuổi bắt nhau...

(nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Ủy ban Dân tộc, Cuộc sống Việt)

Bài được hoang.le sửa đổi lần cuối vào ngày 02-02-2011, lúc 15:06
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
8 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hoang.le vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
Đêm Đông (10-12-2010), Đinh Đức Tâm (10-12-2010), Dat_stamp (16-04-2012), hat_de (11-01-2011), manh thuong (10-12-2010), Poetry (10-12-2010), Tien (07-01-2011), tranhungdn (16-04-2012)