Xem riêng 01 Bài
  #17  
Cũ 10-12-2010, 11:20
hoang.le's Avatar
hoang.le hoang.le vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
 
Ngày tham gia: 09-07-2010
Đến từ: Hà Nội
Bài Viết : 78
Cảm ơn: 2,782
Đã được cảm ơn 783 lần trong 92 Bài
Mặc định 8. Dân tộc Chứt

DÂN TỘC CHỨT


Tên tự gọi : Chứt

Tên gọi khác : Tu vang, Pa leng, Xe lang, Tơ hung, Cha cú, Tắc cực, U mo, Xá lá vàng

Nhóm địa phương : Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng

Nhóm ngôn ngữ : Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á)

Dân số : 3.787 người (ước tính năm 2003)

Cư trú : Phần đông cư trú ở huyện Minh Hoá, Tuyên Hoá và Bố Trạch (Quảng Bình), một ít ở huyện Hương Khê (Hà Tĩnh)

Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khoá nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.

Đặc điểm kinh tế - Hoạt động sản xuất : Người Chứt sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. Nguồn sống chính của nhóm Sách là làm ruộng, còn nhóm Rục và A rem là làm rẫy. Ngoài ra người Chứt còn hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống chính trong những năm mất mùa. Người Chứt nhóm Rục có kỹ thuật trèo cây nổi tiếng để lấy mật ở các tổ ong trên cây cao. Họ leo thang bằng dây mây. Mỗi nấc thang là một vòng dây buộc vào thân cây, có chỗ đặt bàn chân. Leo đến đâu, buộc vòng thang đến đó. Các giống cây trồng chính là ngô, sắn, đỗ, lúa. Công cụ sản xuất gồm: rìu, rựa, gậy chọc lỗ, nơi làm ruộng có thêm cày, bừa. Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm sức kéo. Nghề mộc và đan lát là phổ biến, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng trong gia đình. Đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao đổi. Ðôi nơi họ biết thêm nghề rèn dao, rìu. Người Chứt không trồng bông dệt vải.

Tổ chức cộng đồng - Quan hệ xã hội : Trong làng, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng. Người Chứt gọi làng là Cà Vên. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia đình của một dòng họ cư trú. Ðôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau. Ðứng đầu mỗi làng là Pừ Cà Vên. Ông ta giữ luôn cả vai trò tôn giáo. Sinh hoạt tập thể, quan trọng nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp. Ngày nay người Chứt thường nhận mình là họ Cao, họ Đinh... Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Gia đình nhỏ phụ quyền là hình thức phổ biến nhất. Mỗi gia đình chỉ gồm vợ, chồng và con cái chưa lấy vợ, chồng.

Hôn nhân gia đình : Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể. Quan hệ vợ chồng của người Chứt bền vững, hiếm xảy ra bất hòa.

Sinh đẻ : Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thường dựng một cái lều nhỏ cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết thảy mọi việc. Ðẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.

Tục lệ ma chay : Nhà giàu làm quan tài bằng thân cây khoét rỗng; nhà nghèo chỉ bó người chết bằng vỏ cây. Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Theo nếp chung, tang gia tổ chức cúng bái 2-3 ngày, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không lai vãng chăm sóc mộ nữa.

Văn hóa - Văn nghệ : Kho tàng văn nghệ dân gian của người Chứt khá phong phú. Làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lềnh được nhiều người ưa thích. Vốn truyện cổ dồi dào gồm nhiều đề tài khác nhau. Họ có nhiều truyện cổ tích, thần thoại, đặc biệt truyện kể về sự khai thiên lập địa và sinh ra con người. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ...

Nhà cửa : Họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoãm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1954 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Ngày nay, Hầu hết đã định canh định cư, nhưng các làng người Chứt thường tản mạn, họ sống tập trung ở các bản nhỏ trong các thung lũng. Nhà cửa đã khang trang hơn trước nhưng không bền vững. Nét nổi bật của ngôi nhà sàn người Chứt nhóm Arem là hai chiếc khau cút được bố trí ở hai đầu nóc nhà. Khau cút được làm từ hai đoạn cây lồ ô hoặc gỗ buộc chéo nhau tại thành một góc vuông. Nửa trên được vót nhọn, nửa dưới buộc vào rui của mái nhà. Khau cút chẳng những để giữ cho đầu mái nhà khỏi bị gió lật mà điều có ý nghĩa xã hội cơ bản đối với cư dân ở đây là dấu hiệu để nhận biết đồng tộc.

Trang phục : Người Chứt không biết dệt vải, vải mặc mua hoặc trao đổi với người Việt, người Lào trong vùng giáp biên. Xưa, vào mùa hè, nam giới đóng khố, cởi trần; phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Việt.


Phương tiện vận chuyển : Phổ biến là gùi có dây đeo vai, vác hoặc người kéo.

Ăn : Người Chứt ăn cơm đồ cách thuỷ, thức ăn thông thường là ngô, sắn, rau rừng thái nhỏ nấu với ốc, cá suối. Trước kia, bọt cây báng và thịt khỉ là thức ăn quan trọng của nhóm Rục. Ngày ăn hai bữa trưa và tối.

Thờ cúng : Người Chứt thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới. Đồng bào tin có ma rừng, ma suối, ma không trung, thổ công, ma bếp.... trong đó quan trọng nhất là ma làng. Thần nông bảo vệ mùa màng là vị thần cao nhất. Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.

Chơi : Trẻ em rất thích chơi đu. Người Chứt thường làm đu cho trẻ em nhỏ dưới các gốc cây to có bóng mát, treo đu ngay trên các cành cây. Trong các dịp lễ tết, trẻ em chơi cầu lông làm bằng lông gà, đánh găng, người lớn thổi sáo, hát hò.

(nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Ủy ban Dân tộc, Cuộc sống Việt)

Bài được hoang.le sửa đổi lần cuối vào ngày 02-02-2011, lúc 15:07
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
10 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hoang.le vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
Đêm Đông (10-12-2010), Đinh Đức Tâm (10-12-2010), Dat_stamp (16-04-2012), hat_de (11-01-2011), manh thuong (10-12-2010), Poetry (10-12-2010), soonmoon (10-12-2010), thantrongdao (02-02-2011), Tien (10-12-2010), tranhungdn (16-04-2012)