Ðề Tài: THI HÀO NGUYỄN DU
Xem riêng 01 Bài
  #1  
Cũ 13-05-2012, 14:08
nguyenquanghuyth's Avatar
nguyenquanghuyth nguyenquanghuyth vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
Tem Sống
 
Ngày tham gia: 15-12-2009
Bài Viết : 77
Cảm ơn: 534
Đã được cảm ơn 409 lần trong 80 Bài
Smile THI HÀO NGUYỄN DU

THI HÀO NGUYỄN DU
TIỂU SỬ
- Nguyễn Du tên tự là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm 1766 tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu tại phường Bích Câu, Thăng Long (nay là phường Cát Linh, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội). Cha là Nguyễn Nghiễm, sinh ở làng Tiên Điền, nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, tên tự Hy Di, hiệu Nghi Hiên, có biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ, làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng), tước Thượng thư bộ Hộ triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần (24-8-1740) - (27-8-1778), con gái một người làm chức câu kế. Quê làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), xứ Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm (kém chồng 32 tuổi sinh được năm con, bốn trai và một gái)
- Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan.

Name:  nguyen-du.jpg
Views: 378
Size:  37.9 KB

- Năm Đinh Hợi (1767), khi Nguyễn Du mới một tuổi, Nguyễn Nghiễm được thăng Thái tử Thái bảo, hàm tòng nhất phẩm, tước Xuân Quận công nên Nguyễn Du thời đó sống trong giầu sang phú quý.
- Năm Giáp Ngọ (1774), cha Nguyễn Du sung chức tả tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời gian này Nguyễn Du chịu nhiều mất mát:
1. Năm 1775 anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh 1757) qua đời.
2. Năm 1776 (Bính Thân) cha Nguyễn Du qua đời.
3. Năm 1778 (Mậu Tuất) bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Cũng trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa.
- Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý, bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Lúc này Nguyễn Du được một người thân của Nguyễn Nghiễm là Đoàn Nguyễn Tuấn đón về Sơn Nam Hạ (Nam Định) nuôi ăn học.
- Năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất Kiêu binh phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh của Nguyễn Du là Nguyễn Khản được làm Thượng thư bộ Lại, tước Toản Quận công, Nguyễn Điều làm Trấn thủ Sơn Tây.
- Năm Quý Mão (1783) Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường (Tú tài). Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức Chánh thủ hiệu hiệu quân Hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề (sinh 1761) đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên (cử Nhân) và Nguyễn Khản đầu năm thăng chức Thiếu Bảo, cuối năm thăng chức Tham tụng.
- Tháng 2 năm (1784), kiêu binh nổi dậy đưa hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên làm thái tử. Tư dinh của Nguyễn Khản ở phường Bích Câu,Thăng Long bị phá, Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em là Nguyễn Điều đang là trấn thủ Sơn Tây. Đến năm 1786 thì Nguyễn Khản bị mắc bệnh rồi chết ở Thăng Long.
- Năm 1789 Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Đoàn Nguyễn Tuấn hợp tác với nhà Tây Sơn|Tây Sơn]], giữ chức Thị lang bộ Lại. Lúc này Nguyễn Du về ở quê vợ (Quỳnh Côi, Thái Bình).
- Tháng mười, năm Tân Hợi (1791), anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy.
- Năm 1793 Quý Sửu, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm thái sử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn.
- Năm 1794 Giáp Dần, Nguyễn Đề được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Đến năm 1795Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh, đến năm 1796 trở về được thăng chức Tả đồng nghị Trung thư sảnh.
- Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. sau khi được tha ông về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ My trung mạn hứng (Cảm hứng trong tù)
- Mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng tri phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội).
- Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long.
- Năm 1805 Ất Sửu ông được thăng Đông các đại học sĩ (hàm Ngũ phẩm), tước Du Đức hầu và vào nhậm chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807 được cử làm giám khảo kỳ thi h\Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê nghỉ.
- Năm 1809 ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình.
- Năm Quý Dậu 1813 ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm).
- Năm Bính Tý (1816), anh rể Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.
Năm 1820 (Canh Thìn) Gia Long qua đời Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 AL (16-9-1820) thọ 54 tuổi.
Năm Giáp Thân (1824), người ta cải táng ông và đưa về quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.
- Thơ chữ Hán của ông được chia làm ba tập
1. Thanh Hiên thi tập. Gồm 78 bài, sáng tác trong thời gian ông sống ở quê hương xứ Nghệ tức là trước khi ông ra làm quan triều nguyễn
2. Nam Trung tạp ngâm. Gồm 40 bài, sáng tác trong thời ông làm quan triểu nguyễn ở Huế,ở Quảng Bình và ở một số địa phương khác từ Hà Tĩnh trở vào nam.
- Thanh Hiên thi tập và Nam Trung tập ngâm nói lên tâm trạng buồn đau, day dứt, đây được xem là khuynh hướng quan sát và suy ngẫm về cuộc đời tác giả
1. Bắc hành tạp lục. Gồm 131 bài, sáng tác trong thời gian ông đi sứ sang tàu
2. Thơ khi đi sứ có 3 nhóm đáng chú ý:
- Tác phẩm bằng chữ Nôm
Truyện Kiều( Đoạn Trường Tân Thanh) và Văn Chiêu Hồn
1. Truyện kiều: gồm 3254 câu lục bát, dựa vào tiểu thuyết chương hồi "Kim Vân Kiều Truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc). Đây là một kiệt tác tự sự, trữ tình độc nhất vô nhị trong nền văn học trung đại dân tộc.
- Truyện Kiều được xem là những sáng tác mang tính sáng tạo nhất của Nguyễn Du về nghệ thuật sử dụng từ ngữ. Tuy xem là vay mượn cốt truyện nhưng Kiều trong thơ của Nguyễn Du và Kiều trong truyện Trung Quốc khác nhau về nhiều điểm. Vì văn hóa của mỗi quốc gia khác nhau và cách nhìn đời, cảm nhận cuộc sống của mỗi tác giả cũng khác nhau. Truyên Kiều của Nguyễn Du được in ra nhiều thứ tiếng khác nhau và xuất bản trên nhiều nước.
1. Văn chiêu hồn: thể thơ song thất lục bát thể hiện tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với những oan hồn bơ vơ không nơi nương tựa, nhất là phụ nữ và trẻ em.
--------------------------------------------
BỘ TEM KỶ NIỆM 200 NĂM NGÀY SINH CỦA THI HÀO NGUYỄN DU
Name:  23045086_bo tem 177 nho.jpg
Views: 422
Size:  92.9 KB
--------------------------------------------
Chủ tài khoản: Nguyễn Quang Huy
AGB: 6421205102322
VCB: 050 100 0273068
Điện thoại: 0933 41 35 30. Email: nguyenquanghuyth@yahoo.com
Địa chỉ: 95/91 Phùng Tá Chu – P. An Lạc A – Q. Bình Tân – TP. HCM

Bài được nguyenquanghuyth sửa đổi lần cuối vào ngày 13-05-2012, lúc 14:11
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
6 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn nguyenquanghuyth vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
chienbinh (15-05-2012), Lando (13-05-2012), manh thuong (14-05-2012), nguyenhuudinhue (17-05-2012), quaden@_cute (13-05-2012), Tien (14-05-2012)