Xem riêng 01 Bài
  #1  
Cũ 07-09-2014, 20:16
HanParis's Avatar
HanParis HanParis vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
 
Ngày tham gia: 19-02-2013
Đến từ: Paris - France
Bài Viết : 4,031
Cảm ơn: 10,439
Đã được cảm ơn 20,202 lần trong 3,980 Bài
Mặc định Kinh cầu xưa vùng Sài Gòn Chợ Lớn trước 1975

Tình cờ tìm được bài này của bác Văn Trần rất phong phú cho những ai thích Địa Lý, Lịch Sử... và muốn tìm hiểu về kinh cầu xưa tại TP HCM. Trên 300 năm trước, Saigon chỉ là vùng đầm lầy của Thủy Chân Lạp (CPC), rùi từ từ trên con đường Nam Tiến, TP này cũng thuộc về ta dù dưới thời Pháp thuộc. Ngoài sông Saigon, TP còn rất nhiều kinh rạch chằn chịt như tại miền Tây. Tôi cảm thấy TP HCM có nhiều cầu và nhiều bà : Bà Quẹo, Bà Điểm, Bà Hạt, Bà Hom, Bà Rịa (sau này sơ tán ra Vũng Tàu ), (Hai) Bà Trưng, Bà Chiểu, Bà Nghè...

Phần I
Y Nguyên Mai Trần

Bài viết khảo cứu tổng hợp một số tài liệu đề cập đến hệ thống cầu, sông, kinh, rạch vùng Sài Gòn-Chợ Lớn qua các thời kỳ khai phá đầu nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc đến thời Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trước 1975. Trọng điểm nhầm thẩm tra những địa danh dựa trên khảo sát, nghiên cứu bản đồ, không ảnh, hình ảnh tìm thấy thời Pháp và VNCH nhìn lại trong hoài niệm của một thời tuổi trẻ. Những kinh cầu xưa nay đã đi về trong tâm tưởng hay đã thay da đổi áo , cũng đã chuyên chở bao nhiêu kiếp sống thăng trầm cùng những kỹ niệm thân thương của những ai đã từng xuôi ngược, mang hơi thở Saigon một thời là Hòn Ngọc Viển Đông.


Năm 1618 chúa Sãi (Nguyễn Phước (Phúc) Nguyên gả con gái cho vua Miên Chey Chetta II , năm 1623. Chúa mượn xứ Prei Nokor để mở trạm thuế đồng thời được phép gởi quan đến để quản lý việc thu thuế và thương vụ hành chính.

Năm 1658 chúa Hiền (Nguyễn Phúc Tần) cho quân tiến chiếm và phá hủy thành Mô Xoài vì quân Nặc Ong Chăn vua Cao Miên xâm phạm Trấn Biên (thời mới khai thác gọi những chổ đầu biên giới là Trấn Biên ) tức Phú Yên ngày nay.


Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định Thành Thông Chí:
“Lúc ấy địa đầu của Gia định là Mô Xoài và Đồng Nai (nay là trấn Biên hoà) tại hai xứ này đã có dân của nưóc ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng dám tranh chấp điều gì”.

Năm 1679 (Kỷ Mùi, mùa xuân tháng Giêng) tướng cũ nhà Minh, tổng binh thủy lục trấn các xứ ở Long Môn (Quảng Đông) Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tấn; tổng binh các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3000 quân và hơn 50 chiến thuyền vào cửa biển Tư Dung (cửa Tư Hiền) và cửa Hàn Đà Nẵng, không chịu làm tôi tớ nhà Thanh, đến xin thần phục để làm dân mọn cho chúa Nguyễn.


Cũng nên nhớ vào thời điểm nhóm người Hoa xin tị nạn, biên giới không chính thức của Đại Việt chỉ mới đến Mô Xoài (Bà Rịa), chúa Nguyễn Phúc Tần thấy đất Đông phố (Biên Hoà Đồng Nai) nước Lục Chân Lạp sông rạch chằng chịt, đất đai phì nhiêu nghìn dặm nhưng chưa khai phá, chi bằng lấy sức của họ đến khai khẩn mở mang, làm một việc mà lợi đôi ba điều. Chúa Nguyễn Phúc Tần cho người đưa thư đến Nặc Ong Non (vị phó vương đang được chúa Nguyễn bảo vệ) yêu cầu chia cấp đất cho họ vào làm ăn sinh sống quanh vùng đất Prei Nokor (Sài Gòn). Nặc ong Non đồng ý, kể từ đó, nhóm Trần Thắng Tài (Trần Thượng Xuyên) đến ở vùng Kâmpéâp Srêkatrey (Cù Lao Phố, Biên Hòa) và nhóm Dương Ngạn Địch đến ở vùng Peam Mesar (Mỹ Tho). Chúa Nguyễn sau đó lập đồn dinh ở Tân Mỹ gần ngã tư Cống Quỳnh–Nguyễn Trãi ngày nay.

Năm 1698 Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu chính thức cử Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam, thiết lập chính quyền, các đơn vị hành chánh để chính thức xác lập chủ quyền của Đại Việt trên vùng đất mới.


Nguyễn Hữu Cảnh chia vùng này thành huyện Phước Long (Đồng Nai) và huyện Tân Bình (Sài Gòn Bến Nghé) miền đất phiá Nam. Cùng với nhóm lưu dân người Việt đến trước, Trần Thắng Tài và lực lượng của mình tiến hành khai khẩn quy mô lớn chẳng bao lâu ông đã biến vùng đất hoang sơ Cù Lao Phố trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế.


Sau Tây Sơn khởi nghĩa ở Bình Định 1772, Nguyễn Ánh và thân tộc năm 1774 thoát vào Gia định Đồng Nai chiêu tập dân quân chống lại Tây Sơn. Nhiều trận chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh , sau những lần thoát hiễm cuối cùng Nguyễn Ánh chiếm lại Sàigòn với sự giúp sức của người Pháp năm 1789.

Năm 1778 quân Tây sơn lấy cớ người Hoa giúp Nguyễn Ánh nên đã tàn phá vùng Cù Lao Phố (nay xã Hiệp Hoà , Biên Hòa ) đã đẩy người Hoa di tản về phiá Tây Nam, dọc theo sông Bình Dương (về sau ngườì Việt gọi là rạch Bến Nghé , người Pháp gọi là Arroyo Chinois) định cư và lập trung tâm buôn bán gọi là Đề Ngạn, đẩy nhanh tốc độ tàn lụi của Cù Lao Phố và nhanh chóng phát triển vùng Đề Ngạn (Sài Gòn hiểu là Chợ Lớn sau này) Bến Nghé .


Sau khi chiếm lại thành Gia Định năm 1789, năm sau 1790, Nguyễn Ánh cho xây thành phòng thủ Bát Quái với sự giúp đở của viên sĩ quan hải quân người Pháp- Victor Olivier de Puymaniel.


Người Pháp đến 1859, tiếp đó cho xây dựng thành phố Sàigòn chung quanh vùng Thành Quy (thời Gia Long xây 1790, phá 1835) khai thác hệ thống sông rạch thiên nhiên chằng chịt phát triển một thành phố thương mại dọc theo Arroyo Chinois (kinh Bến Nghé) nhằm đáp ứng công cuộc khai triển kinh tế và tăng cường khả năng lưu thông và vận chuyển thương thuyền, hàng hóa với miền Tây và Trung.
Sự đóng góp của nguời Tàu như là đầu tàu khai thác vùng kinh Bến Nghé từ lúc di tản từ Biên hoà cũng được người Pháp thể hiện bằng cách gọi tên rạch Bến Nghé là Arroyo Chinois. Năm 1885, Trương Vĩnh Ký chỉ rõ: “Địa phận nằm giữa đường Marins (xưa là Đồng Khánh, nay là Trần Hưng Đạo) với mé rạch Chợ Lớn, là nơi trú ngụ của người Minh Hương”.


Nhà Nguyển sửa sang trùng tu kinh rạch vùng này và khi người Pháp chiếm Gia Định Thành, khai thác tiềm năng đóng góp của người Hoa (tài chính, óc thương mại, mạng lưới kinh doanh) xây dựng và củng cố thêm cơ sở hạ tầng như xây cầu, đào kinh, rồi lấp kinh thành đường để đáp ứng với nhu cầu đô thị hóa và phát triển kinh tế không ngừng, biến Sàigòn thành trọng tâm kinh tế ngày xưa và ngày nay.

Tổng quan hệ thống sông rạch kinh trên địa bàn Sài Gòn- Chợ Lớn


Khai thác vị trí đặc thù thiên nhiên của phủ Tân Bình (vùng Saigon Bến Nghé Chợ Lớn), với những vùng gò đất cao nằm vế hướng Bắc và Tây Bắc và hệ thống kinh rạch chằng chịt đổ về phiá Nam đầm lầy đất trủng rồi cuối cùng ra biển Đông. Hệ thống sông nước thiên nhiên bao quanh vùng này bao gồm phiá Đông có sông Bến Nghé (sông Sàigòn), phía Bắc có sông Bình Trị (rạch Thị Nghè) và phiá Nam có sông Bình Dương (rạch Bến Nghé) đáp ứng nhu cầu phòng thủ và phát triển kinh tế với sự đóng góp cùa người Hoa với khả năng giao tiếp thương mại thu hút khách thương buôn từ Âu, Tân Gia Ba, HongKong, Thái, Nhật…


Dưới thời Gia Long, một vị vỏ quan Trần Văn Học (1) vẻ bản đồ đầu tiên vùng này năm 1815. Chính quyền VNCH ghi công đặt tên ông cho con đường quan trọng ở vùng Gia Định- đường Nguyễn văn Học ( lấy họ vua) đi đến các tỉnh miền Đông trước 1975 , nay là Nơ Trang Long.



Hình 1A-Bản đồTrần Văn Học 1815 với hiệu đính điạ danh lấy từ Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức.



Hình 1B: Vị trí thành Bát Quái và thành Phụng trên bản đồ 1A.


Sau khi phá vở Đại đồn Kỳ Hòa (Chí Hòa) của Nguyễn Tri Phương tháng 2 1861, đô đốc Charner ban hành nghị định thiết kế quy hoạch Saigon Cholon ngày 11/4/1861 trước khi được điều động trở lại Pháp nhậm chức mới. Phó Đô Đốc Bonard thừa hành giao cho Đại Tá công binh Coffyn thực hiện quy hoạch. Coffyn đệ trình dự án cho một thành phố với 500,000 người (Projet de Ville de 500.000 âmes à Saigon) và được Bonard chấp thuận 30/4/1862.


Nhận định vị trí vùng thành phố được bao bọc bởi ba đường nước thiên nhiên ở phía Bắc, Đông và Nam, Coffyn thiết kế một đường nước nhân tạo- đào kinh Vòng Thành ở phiá Tây- biệt lập thành phố như nằm trên cù lao nhỏ.



Hình 2 : Bản đồ Coffyn 1893 cho thấy quy hoạch thành phố Sàigòn Chợ Lớn, bao bọc bởi Rạch Thị Nghè (phía Bắc) , Rạch Bến Nghé (Nam), Sông Bến Nghé (Đông) và Kinh Vòng Thành (Tây).



Hình 3: Bản đồ 3 thời VNCH năm 1962 cho thấy sông rạch bao quanh thành phố Saigon-Chơ Lớn sau khi kinh Tẽ (nhánh của rạch Bến Nghé) được đào năm 1905


Những chiếc cầu bắc ngang sông, rạch, kinh trước 1975:
1) Cầu trên sông SàiGòn
2) Kinh đào và lấp vùng quận 1 Sàigòn
3) Cầu trên rạch Thị Nghè (kinh Nhiêu Lôc)
4) Cầu trên rạch phiá Nam-rạch Bến Nghé , Kinh Bải Sậy, Kinh Đôi, Kinh Tẽ
5) Kinh Vòng Thành


1 -Cầu trên sông Sàigòn (Bến Nghé) phía Đông Sài Gòn
Sông Bến Nghé –sau gọi là sông Sàigòn có đầu nguồn ở vùng Lộc Ninh thuộc tỉnh Bình Long trước 1975, bây giờ là Bình Phước. Bản đồ Pháp Plan de Ville 1790, 1795 còn gọi là sông Đồng Nai-vì cho rằng đây là môt nhánh của sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lang Biang (Lâm Viên) chảy qua Biên Hoà, xuống vùng Sàigòn, thực tế sông Đồng Nai hợp lưu với sông Sàigòn thành sông Nhà Bè rồi chảy ra biển Đông. Cưả Đông và cửa Nam của thành Phụng và Thành Quy hướng về sông Bến Nghé (xem hình 1B).
Đoạn sông Sàigòn trước khi uốn khúc quanh bán đảo Thanh Đa, người đia phương gọi là sông cầu Bình Lơi. Sông khá sâu, nước chảy khá mạnh. Sông Saigon có phụ lưu sông Bến Cát, rạch Lăng có nguồn từ sông Bến Cát chạy quanh co nối với rạch Bến Bôi khu vực Ngả Năm Bình Hoà rồi chảy xuống rạch Cầu Bông ra Rạch Thị Nghè (Nhiêu Lộc).


Có bốn cây cầu chính bắc qua sông Sài Gòn trước 1975.

Hình 4: Không ảnh định vị những cầu xưa trước 1975 trên sông Sài Gòn (vùng Bình Lợi-Thanh Đa)


Cầu Bình Lợi
Bắc ngang sông Saigòn đầu tiên là cầu Bình Lợi xây năm 1902 cầu sắt , sàn cầu bằng gổ cứng, có cả đường rấy xe lửa, đây là cây cầu quan trọng nhất đi Biên Hoà và các tỉnh Miền Đông. Nhịp giữa quay được cho tàu qua, xây dựng bởi công ty Pháp Lavelois Perret (tên của công ty Eiffel do Gustav Eiffel, người kỹ sư xây tháp Eiffel sáng lập).



Hình 5: Xe lửa chạy trên cầu Bình Lợi



Hình 6: Cầu Bình Lợi xưa



Hình 7: Xe lưu thông một chiều phải đợi tới phiên


Cầu chỉ đi được một chiều, bên được lưu thông thì bên kia phải đợi, khi có xe lửa chạy thì hai bên dừng lại cho tới khi xe lửa rời cầu. Sàn xe lửa xây dựng bằng những tấm phản gổ to, xe chạy mãi mòn gổ có đoạn bóng loáng khi chạy xe phải cẩn thận vì trơn trợt, nhìn qua khe gổ trên sàn cầu thấy nưóc sông Bình Lợi cuồng cuộn chảy. Có lẽ một phần vì có nhiều người đến đây nhảy cầu tự tử, người địa phương có câu “muốn chết nhảy xuống sông cầu Bình Lơi”. Cầu này trước khi có xa lộ Saigòn Biên Hòa đưa dân Sàigòn đến những vùng trái cây nổi tiếng Lái Thiêu (măng cụt, sầu riêng, chôm chôm…), hoặc lên Thủ Đức ăn nem gói bằng lá chuối, có lót lá vông kể tăng độ chua mời xem Dì Hai Lò Nem, http://maivantran.com/tag/lo-nem/tắm suối Xuân trườngở Dỉ An, hoặc mua bưởi Biên Hòa, lên “núi” Châu Thới”, gọi là núi nhưng thật sự chỉ cao 82m .



Hình 8: Nem Thủ Đức

Hình 9: Cầu Bình Lợi thập niên 60


Cầu Bình Triệu

Hình 10: Câu Bình Triệu, vị trí cầu Bình Triệu xem hình 4

Ngày xưa từ Sài Gòn lên Thủ Đức đi ngả Cầu Bông, xuống đường Nguyễn văn Học (Nơ Trang Long) qua Ngả Tư Bình Hòa, Ngả Năm Bình Hoà, qua cầu Băng Ky, cầu Bình Lợi , Cầu Gò Dưa và Cầu Ngang để vào Thủ Đức.
Từ sau 1961 khi có xa lộ Saigon –Biên Hoà, từ Saigon lên xa lộ chạy thẳng qua nhà máy Xi Măng , qua khu vực làng Đại Học đến ngả tư Xa lộ rẽ trái đi vào chợ Thủ Đức.
Đến đầu thập niên 70 có thể đi Thủ Đức qua cầu Bình Triệu đi theo đường Phan Thanh Giản hay Hồng Thập Tự qua Ngả tư Hàng Xanh, theo Quốc lộ 13, qua cầu Bình Triệu, đến ngả tư Bình Triệu thì rẽ phải để đi về hướng cầu Gò Dưa vô chợ Thủ Đức.

Cầu Kinh

Hình 11 :Kinh đào Thanh Đa (còn gọi là kinh Bình Quới) xẻ ngang vùng Bình Qưới, rút ngắn thời gian lưu thông thương thuyền từ thượng lưu đến rạch Bến Nghé, căt ngắn 12 km đường sông
Kinh Thanh Đa (Canal de Thanh Đa) đào trong hai năm 1897 và 1898 dài 1km, rộng 40m và sâu 6m (Monographie de la province de Gia- Định 1902).


Nối trực tiếp qua bán đảo Bình Qưới. Vùng Thanh Đa xưa kia là đồng ruộng bao la, chỉ có một vài cơ xưỡng kỹ nghệ nhỏ dựa vào đường sông để vận chuyển. Vùng này thường ngập úng vào mùa mưa khi nước thủy triều sông Sàigòn dâng lên.

Hình 12: Cầu Kinh qua Bình Quới Thanh Đa



Hình 13: Không ảnh vùng kinh Thanh Đa


Cầu Sài Gòn- Cầu Xa lộ Saigon Biên Hoà (HN)

Cầu này nối đường Phan Thanh Giản (bây giờ là Điện Biên Phủ) bắc ngang sông Saigon trên xa lộ Sàigòn Biên Hoà. Xa lộ này khởi công xây dựng 1957 và được khánh thành năm 1961. Đây là một công trình có tính cách bức phá xữ dụng công nghiệp làm đường của Mỹ do hảng thầu RMK-BRJ Mỹ qua kinh phí viện trợ kinh tế của USOM để mở mang vùng công nghiệp dọc theo tuyến đường qua vùng Thủ Đức Biên Hoà gọi là khu Công Nghiệp Kỹ Nghệ Biên Hoà. Phần lớn máy móc, trang thiết bị của các xí nghiệp nhà máy trong khu kỹ nghệ này khá hiện đại được nhập cảng vào từ Pháp, Nhật, Đức, Mỹ… thu hút hàng ngàn nhân công chung quanh vùng. Khu Công nghiệp Biên Hòa bao gồm nhiều ngành nghề kinh tế mà nguồn đầu tư cũng rất đa dạng. Hoạt động sản xuất công nghệ với nhiều nhóm ngành nghề: Hoá học, mỹ phẩm, cơ khí và luyện kim, vật liệu xây dựng (nhà máy Xi măng Hà Tiên ở Thủ Đức, VIKIMCO (kim khí), VINATON (tôn che mái nhà…) và hàng tiêu dùng (nhà máy giấy Cogido-An hảo, nhà máy vải dệt Vinatexco, Vimytex, công ty sữa Foremost…)
Cầu có 13 nhịp xây bằng bê tông cốt sắt, riêng ba nhịp sàn giữa thì bằng “đan” sắt có thể di chuyển được. Cầu có 8 lằng xe, chia đều hai hướng đi về.


Trong thời gian xây dựng xa lộ hai bên vệ đường là những quán xây dựng tạm thời, đủ loại thức ăn bài bán nhưng chung qui là món nhậu, cà phê, bia, mực khô nướng, hột vịt lộn, chè. Người ta có thể tìm thấy những người trẻ dùng những ống cống bằng bê tông đường kính cà hơn thước, tìm giây phút riêng tư hoặc ăn uống thư giản, nhất là lúc chiều lên.



Hình 14: Giữ an ninh đầu cầu Sài gòn



Hình 15: Cầu Sàigòn trên xa lộ Sàigòn Biên Hòa.


2 -Kinh đào và lấp vùng quận 1 Sài Gòn.
Sau khi Gia Định thành thất thủ 1861, người Pháp xây dựng thành phố Sài Gòn theo quy hoạch Coffyn 1862.



Hình 16: Quy hoạch Coffyn
Điểm chính của Quy họach gồm có:
- Vị trí Thành Phố bao quanh bởi bốn đường nước như đã nói trên.
- Quy hoạch phân lô các loại đất (thổ cư, buốn bán…)
- Dùng đường Imperial (Hai Bà Trưng) làm trục Đông-Tây. Phía Đông, khu hành chánh, phía Tây khu thương mại, dịch vụ, công nghiệp..
- Quy hoạch đường xá, bến cảng
- Quy Hoạch về hệ thống nước, cung cấp nước tiêu dùng, thoát nước, rác phân…
- Quy hoạch về an ninh phòng thủ


Thực sự không biết quy hoạch này có được thực hiện toàn bộ không, nhưng điều chắc chắn là quy hoạch này đã là nền tảng cho một thành phố -một thời được gọi là Hòn Ngọc Viễn Đông.


Khảo sát hình 2 bản đồ 2 1893 và hình 3 1962, kinh Vòng Thành đã được đào nhưng toàn kinh chưa được đem vào xữ dụng vì nạn bùn lên quá nhanh ghe thuyền không di chuyển được (Monographie de la Province de Gia- Định 1902, trang 19 ).



Hình 17: Bản đồ 1867 với chú thích về kinh rạch khu này sau bị lấp đi biến thành đường xá.


Dựa theo bản đồ khu vực Sàigòn năm 1867, người Pháp cho đào hoặc trùng tu một số đường nước trong khu vực nhằm giải quyết vấn đề giao thông và vận chuyển hàng hoá vào Saigon lúc bấy gìờ.


Kinh Chợ Vải (xem bản đồ có chú thích trên A) mà người Pháp gọi là Grand Canal (kinh Lớn) được đào 1867 từ sông Saigon chạy vào đến giếng nước (khoảng bùng binh Nguyễn Huệ bây giờ) quẹo phải hợp lưu với kinh Coffyn mà chảy ra lại Sông Sàigòn, người Việt gọi là chợ Vải vì đây là nơi buôn bán vải vóc của chợ Bến Thành đầu tiên ở Sàigòn . Chợ này được xây cất năm 1860 và phá huỷ năm 1910. Sau đó chợ được xây lại ở vị trí hôm nay (trên khu đầm lầy (marais Boresse)) năm 1912. Chợ Bến Thành được khai trương tháng 3 năm 1914 thay chợ Vải. Khi chợ mới đi vào hoạt động chợ Vải trở thành Chợ Cũ, nhưng sau này khu buôn bán của chợ Cũ dời về khu đường Tôn Thất Đạm, Huỳnh Thúc Kháng và Hồ Tùng Mậu. Công trường Quách thị Trang trước chợ Bến Thành, thời Pháp gọi là công trường Cuniac, tên ủy viên hội đồng Xã Tây quản lý việc đấp đầm lầy, cũng được người Sàigòn gọi là Bùng Binh Saigon .
Vì tốc độ đô thị hóa, kinh Chợ Vải bị lấp vào khoảng 1887 sau 20 năm hoạt động.




Hình 18: Kinh Chợ Vải.

Rạch Cầu Sấu (điểm B trên hình 7 bản đồ thành phố Sài Gòn 1867)
Còn ở giữa khoảng Sở Thương chánh (Port de Commerce – Sở này có từ 1860) có một con rạch, tục danh “Rạch Cầu Sấu” vì nơi đây có một cái hầm nuôi cá sấu để xẻ thịt bán. Rạch Cầu Sấu nối liền kinh Chợ Vải tới một con rạch nhỏ nữa do Coffyn đào, về sau cả ba con kinh này đều lấp bằng trở nên đại lộ “Đường Kinh Lấp” chạy từ dinh Xã Tây tới giáp đường Công Lý và đại lộ Hàm Nghi (Boulevard de la Somme cũ). (Vương Hồng Sển – Sàigòn năm xưa)

Rạch Cây Cám (D)
Trước khi đi đến kho đạn cũ, bọc theo bờ thành gần cửa Đông “Phan Yên Môn” của thành Quy, có một con kinh nhỏ chạy dài tên là “Kinh Cây Cám” chạy tới đường Lê Thánh Tôn đi ngang Sở Pháo thủ (Pyrotechnie) qua Sở Công binh thuật (Génie) là dứt. Con kinh này, khúc nối dài tới Chợ Cũ thì gọi “Kinh Chợ Vải” vì vải sồ hàng giẻ đều bán tại đây (Vương Hồng Sển – Sàigòn năm xưa)

Rạch Cầu Ông Lảnh (E)
Rạch này có nguồn từ rạch Bến Nghé chạy quanh khu Cầu Quan-Cầu Muối- Cầu Kho, với nhiều nhánh tẽ mang tên điạ phương của những cây cầu: cầu Kho (rạch Cầu Kho), cầu Muối (rạch Cầu Muối) Cầu Quan ( rạch Cầu Quan)…

Kinh Coffyn (C)
Kinh đào Coffyn nối rạch Cầu Sấu, Kinh Chợ Vải và kinh Cây Cám.
Có thể nói, tất cả các rạch và kinh đào của khu Quận 1 (xem bản đồ hình 17) nhằm đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hoá và giao thông cuối thế kỹ 18 và 19 đều bị lấp vì áp lực thành thị hoá và sự thay đổi phương thức vận chuyển vào cuối thập niên thế kỹ 19.
Kinh Chợ Vải đào 1867 bị lấp giai đoạn 1887-1892 thành đường Charner –sau thành đại lộ Nguyễn Huệ.
Rạch Cầu Sấu bị lấp thành đường de la Somme, sau thành đường Hàm Nghi.


Kinh đào Coffyn nối Rạch Cầu Sấu-Kinh Chợ Vải-Kinh Cây Cám, bị lấp năm 1892 để biến thành đường Bonard –sau Lê Lợi và đường D’ Espagne thành đường Lê Thánh Tôn.
Rạch Cầu Ông Lảnh thành đường Kitchener sau Abattoir (Lò Heo-vì vùng này là vùng Lò Heo củ của Saigon Chợ Lớn trước khi có Lò Heo bên Chánh Hưng), sau thời VNCH đặt tên Nguyễn Thái Học cho đến nay.
Rạch Cầu Kho biến thành đường Blancsubé de Cầu Kho, thời VNCH đường Huỳnh Quang Tiên, sau 1975 thành Hồ Hảo Hớn. Rạch cầu Kho không phải bị lấp thành đường Phát Diệm-Trần Đình Xu (chi tiết ở Phần II).


3-Cầu trên rạch Thị Nghè phía Bắc
Dọc theo sông Sàigòn vùng Thạnh Mỹ Tây (xem hình 3 bản đồ 3), thuyền quẹo vào trái vào rạch Thị Nghè và rạch Văn Thánh. Rạch Thị Nghè nằm phía Bắc thành phố Sài Gòn Chợ Lớn, đối diên vói cửa Đông của Thành Quy –Bát Quái (1790-1835) và thành Phụng (1836-1859) xem hình 1B. Chú ý thành Phụng được thêm vào bản đồ Trần Văn Học năm 1815 cộng với những địa danh rút từ Gia định thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức được viết vào khoảng 1820-1822 ( Gia Định Thành Thông Chí -Lời Gìới Thiệu).


Theo bản đồ 1815 thì rạch Thị Nghè lúc ấy gọi là sông Bình Trị (trong địa hạt Tổng Bình Trị Trung), người đia phương gọi là sông Thị Nghè, vì có cầu Thị Nghè bắt ngang sông bên hông Sở thú. Đến đoạn cầu Bông-trước đó gọi là cầu Cao Miên- thì gọi là sông cầu Bông. Rạch Thị Nghè chảy qua đoạn cầu Bông về phiá Tây Bắc có cây cầu Kiệu (gọi là sông Cầu Kiệu Phú Nhuận) , rồi từ cầu Mac Mahon (Công Lý ) quẹo về hướng Tây đến cầu Trương Minh Giảng gọi là Kinh Nhiêu Lộc vì đường nước trở nên nhỏ hẹp.


Người Pháp sau khi chiếm được Gia định thành gọi rạch Thị Nghè là Arroyo de l’Avalanche, lấy tên con tàu đầu tiên tiến vào rạch.
Rạch Thị Nghè chảy dài từ khu vực Ba Son Thị Nghè đến Ngả Tư Bảy Hiền Tân Bình.



Hình 19: Bản đồ rạch Thị Nghè (được phóng đại từ bản đồ 1903 Plan Doumer)


Nguồn :http://maivantran.com/2013/11/19/ke-...truoc-1975-p1/
__________________
3T -> Thân Thiện - Trí Thức - Tình Nghĩa

Trăm Năm Trong Cõi Người Ta
Tem Bì Bưu Ảnh Là Moa Ưa Rùi
Văn Chương Súng Ống Nửa Mùa
Chõ Mồm Một Tí Nói
Đùa Ace Ơi!

Bài được HanParis sửa đổi lần cuối vào ngày 07-09-2014, lúc 21:00
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
3 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn HanParis vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
manh thuong (08-09-2014), nam_hoa1 (08-09-2014), NHL-2014 (07-09-2014)