|
#1
|
||||
|
||||
Hàng Không Mẫu Hạm (aircraft carrier)
aircraft carrier - Hàng Không Mẫu Hạm Tàu sân bay là một loại phương tiện chiến đấu to lớn, là niềm tự hào đối với các quốc gia có nó. Sỡ hữu một đội tàu hùng mạnh là một nhu cầu một tất yếu với các nước có đường bờ biển dài, hoặc có tham vọng lớn thao túng có đại dương như các nước phương tây, mĩ ... Bài được ngotthuha231 sửa đổi lần cuối vào ngày 02-06-2009, lúc 14:47 |
5 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn open vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
huuhuetran (15-10-2008), NHL-2014 (08-08-2015), Poetry (15-10-2008), Tien (15-10-2008), tiny (02-06-2009) |
#2
|
||||
|
||||
Nguồn gốc
Khi máy bay nặng hơn không khí được phát triển vào đầu thế kỷ 20, nhiều lực lượng hải quân bắt đầu chú ý tới tiềm năng sử dụng chúng để trinh sát những tàu chiến lớn. Nhiều chuyến bay thử nghiệm đã được thiến hành để kiểm tra ý tưởng này. Eugene Ely là phi công đầu tiên được phóng từ một tàu đứng yên vào tháng 10 năm 1910. Ông đã cất cánh từ một kết cấu được gắn chặt vào phần boong mũi tàu chiếc tuần dương hạm bọc sắt của Mỹ, USS Birmingham tại Hampton Roads, Virginia và hạ cánh ở gần đó trên Mũi đất Willoughby sau vài phút bay trên không. Vào ngày 18 tháng 1 1911 ông trở thành phi công đầu tiên hạ cánh trên một tàu đứng yên. Ông cất cánh từ đường đua Tanforan và hạ cánh trên một kết cấu tạm khác trên đuôi chiếc USS Pennsylvania bỏ neo tại San Francisco bến cảng – hệ thống phanh ngẫu tác gồm các bao cát và những sợi dây dẫn thẳng tới mũi hãm và những sợi dây được miêu tả bên trên. Máy bay của ông sau đó quay tròn và ông không thể cất cánh lại. Sĩ quan chỉ huy Charles Samson, RN, trở thành người đầu tiên cất cánh từ một tàu chiến đang chạy vào ngày 2 tháng 5 1912. Ông cất cánh trông một Short S27 từ tàu chiến HMS Hibernia khi nó đang chạy với tốc độ 10.5 knots (19 km/h) trong cuộc Thao diễn hạm đội hoàng gia ở Weymouth. HMS Ark Royal là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên. Ban đầu nó là một chiếc tàu buôn, nhưng được hoán cải lại để trở thành một tàu sân bay chở máy bay trên biển. Được đưa vào sử dụng năm 1914, nó phục vụ trong chiến dịch Dardanelles đến hết Chiến tranh thế giới thứ nhất. Cuộc tấn công đầu tiên từ một tàu sân bay là tấn công một mục tiêu trên đất liền diễn ra ngày 19 tháng 7 1918. Bảy chiếc Sopwith Camel được phóng từ HMS Furious đã tấn công căn cứ Zeppelin của Đức tại Tondern, với hai quả bom 50 lb mỗi quả. Nhiều khí cầu và bóng khí bị phá huỷ, nhưng vì tàu sân bay không có cách nào để thu hồi máy bay một cách an toàn, hai phi công đã bỏ máy bay trên biển cạnh tàu trong khi những người khác bay tới nước Đan Mạch trung lập. Những năm giữa hai cuộc chiến Hiệp ước Hải quân Washington năm 1922 đã đặt ra những giới hạn chặt chẽ về sức mạnh hải quân sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các giới hạn không chỉ về tổng kích thước của các tàu sân bay, mà còn về giới hạn tối đa là 27,000 tấn cho mỗi chiếc. Mặc dù đã có một số sửa đổi về tổng kích thước (chỉ tính những chiếc trong hạm đội, không tính những chiếc thử nghiệm), không được vượt quá tổng kích thước. Tuy nhiên, trong khi các cường quốc hải quân lớn vượt quá kích thước đối với những chiếc tàu chiến, thì họ không vượt kích thước đối với các tàu sân bay. Vì thế, nhiều tàu chiến và tuần dương hạm đang được chế tạo (hay đang được sử dụng) đã được chuyển đổi thành tàu sân bay. Chiếc tàu đầu tiên có boong phẳng trên toàn bộ chiều dài là chiếc HMS Argus việc hoán cải nó hoàn thành vào tháng 9 1918, với việc Hải quân Hoa Kỳ không following suit until 1920, khi việc hoán cải chiếc USS Langley đã hoàn thành. Hạm đội tàu sân bay đầu tiên của Mỹ chỉ được đưa vào phục vụ năm 1928 (USS Lexington và Saratoga). Chiếc tàu sân bay thực sự đầu tiên được phát triển là chiếc HMS Hermes, mặc dầu chiếc đầu tiên được biên chế vào hạm đội là chiếc Hosho của Nhật Bản (được biên chế vào tháng 12 năm 1922, tiếp đó là chiếc HMS Hermes vào tháng 7 năm 1923). Thiết kế của chiếc Hermes tiếp nối và có ảnh hưởng từ chiếc Hosho, và việc chế tạo nó trên thực tế được bắt đầu sớm hơn, nhưng nhiều cuộc kiểm tra, thực nghiệm và ngân sách đã làm chậm thời gian hoàn thành nó. Tới cuối thập kỷ 1930, các tàu sân bay trên thế giới thường mang ba kiểu máy bay: máy bay phóng ngư lôi, cũng được sử dụng cho những vụ ném bom quy ước trinh sát; máy bay ném bom bổ nhào, cũng được sử dụng vào trinh sát (trong Hải quân Hoa Kỳ, kiểu máy bay này được gọi là “máy bay ném bom trinh sát”); và máy bay chiến đấu để bảo vệ hạm đội và hộ tống các máy bay ném bom đi làm nhiệm vụ. Bởi vì khoảng không trên tàu sân bay rất hạn chế, tất cả các máy bay đó đều nhỏ, có một động cơ, và thường có cánh gấp lại để dễ xếp cất. |
2 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn open vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
huuhuetran (16-10-2008), tiny (02-06-2009) |
#3
|
||||
|
||||
Chiến tranh thế giới thứ hai
Các tàu sân bay đóng một vai trò quan trọng trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Với bảy tàu hoạt động, Hải quân hoàng gia có một ưu thế về số lượng to lớn ở đầu cuộc chiến khi cả Đức và Italia đều không có tàu sân bay. Sự yếu kém rõ ràng này trước các tàu chiến đã thay đổi vào tháng 10 năm 1940 khi chiếc HMS Illustrious tung ra một cuộc tấn công tầm xa vào hạm đội Italia trong Trận Taranto. Chiến dịch này đã làm mất khả năng chiến đấu của ba trong sáu tàu chiến tại cảng và chỉ mất 2 chiếc trong số 21 chiếc máy bay tấn công Fairey Swordfish torpedo bombers. Các tàu sân bay cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố cho Malta, cả bằng cách vận chuyển máy bay và bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho hòn đảo đang bị phong tỏa này. Việc sử dụng các tàu sân bay đã làm cho hải quân Italia và Đức vốn chỉ có căn cứ sân bay trên đất liền không thể thống trị trên vùng Địa trung hải. Những cải tiến thời chiến Kinh nghiệm chiến đấu đã cho thấy phát minh “mũi tàu chống bão” của Anh là các sử dụng mũi tàu hữu hiệu nhất, hơn cả súng máy hay một tầng thứ nhì. Loại mũi tàu này đã được sử dụng rộng rãi cho các hàng không mẫu hạm Anh và Mỹ. Hàng không mẫu hạm Nhật Taiho là tàu đầu tiên của Nhật sử dụng phát minh này. Bắt đầu muộn trong cuộc chiến với lớp tàu sân bay Midway, các tàu sân bay Mỹ đã trở nên to lớn tới mức thực tế việc áp dụng khái niệm thiết kế boong chứa máy bay (hangar deck) trở thành boong mạnh (strenth deck) không còn thích hợp nữa, và mọi tàu sân bay Hoa Kỳ sau này đều có boong cất cánh là boong mạnh, khiến đảo trở thành siêu cấu trúc duy nhất. Những tàu sân bay hộ tống và Tàu sân bay kiểu tàu buôn Để bảo vệ các đoàn tàu trên biển Đại Tây Dương, người Anh đã phát triển một kiểu tàu được gọi là tàu sân bay kiểu tàu buôn, chúng vốn là những tàu buôn được trang bị một boong phẳng cho khoảng sáu chiếc máy bay. Chúng được vận hành bởi những đoàn thủy thủ dân sự, treo cờ thương mại, và mang hàng hóa thông thường tuy nhiên vẫn có hỗ trợ bảo vệ bằng không quân. Bởi vì những tàu đó không có thang máy hay chỗ đỗ cho máy bay, việc bảo dưỡng máy bay bị hạn chế và trong suốt cuộc hành trình, máy bay phải đỗ trên boong. Các tàu sân bay hộ tống sản xuất ở Mỹ thường từ hai kiểu thiết kế thân căn bản: một từ tàu buôn, và một từ tàu chở dầu hơi lớn và tốc độ hơi cao. Bên cạnh việc bảo vệ hộ tống, chúng được sử dụng để vận chuyển máy bay qua biển. Tuy nhiên, một số cũng tham gia vào các trận đánh giải phóng Philippines, nổi tiếng là trận Samar trong đó sáu chiếc tàu sân bay hộ tống và các tàu khu trục đã nhanh chóng tiếp chiến năm tàu chiến Nhật Bản và buộc chúng phải rút lui. Bài được open sửa đổi lần cuối vào ngày 16-10-2008, lúc 18:51 |
#4
|
||||
|
||||
Những phát triển thời hậu chiến
Hệ thống phóng thủy lực hiện đại, được cung cấp sức mạnh thủy lực từ các nồi hơi hay các lò phản ứng, được Chỉ huy trưởng C.C. Mitchell Royal Naval Reserve phát minh ra. Nó đã được ứng dụng rộng rãi sau khi được thử nghiệm nhiều lần trên chiếc HMS Perseus từ giữa 1950 và 1952 nó cho thấy sức mạnh lớn hơn và độ tin cậy cao hơn những hệ thống phóng dùng khí nén vốn từng được đưa vào sử dụng từ thập kỷ 1930. Hiện tại, chỉ các tàu sân bay dùng năng lượng hạt nhân là có các nồi hơi như một phần trong hệ thống sức mạnh chuyển động của nó, đa phần các tàu sân bay hiện nay được trang bị thiết bị phát hơi chỉ dùng để cung cấp năng lượng cho các máy phóng. Một sáng chế khác của người Anh là bộ phận chỉ thị độ dốc trượt (glide-slope indicator) (cũng được gọi là “thịt viên”). Đó là một cái đèn được điều khiển kiểu con quay hồi chuyển (gyroscopically-controlled lamp) ở phía hạ cánh của boong, và được phi công đang sắp hạ cánh quan sát thấy, chỉ thị cho anh ta thấy anh ta đang ở quá cao hay quá thấp so với đường lượn xuống chính xác. Nó cũng tính toán sẵn ảnh hưởng của sóng đối với boong. Thiết bị này đã trở nên cần thiết khi tốc độ hạ cánh của máy bay ngày càng tăng lên. Hải quân Hoa Kỳ từ sớm đã cố gắn để trở thành một lực lượng hạt nhân chiến lược với kế hoạch chế tạo chiếc USS United States (CVA-58), thuật ngữ CVA, với chữ “A” để biểu thị “hạt nhân”. Chiếc tàu này mang các máy ném bom cánh quạt đôi, mỗi chiếc có thể mang một quả bom hạt nhân. Dự án này đã bị hủy bỏ dưới sức ép của lực lượng mới được thành lập gần đây là Không lực Hoa Kỳ, và chữ “A” được dùng lại với ý nghĩa “tấn công.” Nhưng điều này chỉ làm chậm sự lớn mạnh của các tàu sân bay. Các vũ khí hạt nhân sẽ được mang ra biển bất chấp sự phản đối của Không quân năm 1955 trên chiếc USS Forrestal, và tới cuối thập niên năm mươi Hải quân đã có nhiều máy bay tấn công trang bị vũ khí hạt nhân. Hải quân Hoa Kỳ mang vũ khí hạt nhân trên biển theo cách khác bằng cách chế tạo các tàu sân bay có trang bị các lò phản ứng hạt nhân. Chiếc USS Enterprise là chiếc tàu sân bay đầu tiên được cung cấp năng lượng theo kiểu này và những chiếc siêu tàu sân bay này có ưu thế vì kiểu công nghệ đó cho phép chúng hoạt động lâu dài trên biển. Một quốc gia khác duy nhất học theo Hoa Kỳ là Pháp với chiếc Charles de Gaulle. Những năm hậu chiến cũng chứng kiến sự phát triển của máy bay trực thăng với nhiều khả năng khác biệt so với máy bay chiến đấu. Trong khi các máy bay có cánh cứng thường có nhiệm vụ chiến đấu không đối không và không đối đất thì các máy bay trực thăng được sử dụng để vận chuyển trang thiết bị và con người và có thể được sử dụng trong vai trò chiến tranh chống tàu ngầm với thiết bị siêu âm thả xuống nước và các tên lửa. Vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, Anh Quốc đã hoán cải một số tàu sân bay cũ của họ thành các tàu sân bay chở quân biệt kích, và những chiếc máy bay trên biển kiểu HMS Bulwark. Để chiến đấu chống lại những ý nghĩa đắt giá của thuật ngữ “tàu sân bay”, chiếc tàu loại mới lớp Invincible ban đầu được chỉ định “thông qua boong các tuần dương hạm” và chở các máy bay trực thăng với nhiệm vụ hộ tống. Khi loại máy bay Sea Harrier xuất hiện, chúng đã có thể mang cả máy bay cánh cứng dù có đường băng ngắn. Các chiến dịch tàu sân bay của Liên hiệp quốc trong Chiến tranh Triều Tiên Liên hiệp quốc đã thực hiện các chiến dịch tàu sân bay chống lại The United Nations command began carrier operations against the Quân đội Bắc Triều Tiên ngày 3 tháng 7, 1950 để đáp trả lại việc họ tấn công Nam Triều Tiên. Lực lượng tấn công 77 lúc đó gồm các tàu sân bay Valley Forge và HMS Triumph. Trước cuộc đình chiến vào ngày 27 tháng 7, 1953, 12 tàu sân bay Mỹ đã 27 lần tuần tiễu trong vùng biển Nhật Bản như một phần thuộc lực lượng tấn công 77. Một đơn vị thứ hai, Lực lượng tấn công 95, được dùng làm lực lượng phong tỏa ở Biển Vàng ngoài khơi Bắc Triều Tiên. Lực lượng này gồm một tàu sân bay hạng nhẹ của các nước khối thịnh vượng chung (Triumph, Theseus, Glory, Ocean, and HMAS Sydney) và một tàu hộ tống của Mỹ (Badoeng Strait, Bairoko, Point Cruz, Rendova, and Sicily). Hơn 301,000 cuộc tấn công từ các tàu sân bay đã được tung ra trong Chiến tranh Triều Tiên: 255,545 vụ bởi các máy bay của Lực lượng tấn công 77, và 20,375 vụ bởi các tàu sân bay hộ tống của Lực lượng tấn công 95. Hải quân Hoa Kỳ và Marine Corps carrier-based thiệt hại 541 máy bay. Hạm đội không quân thiệt hại 86 máy bay trong chiến đấu, và Hạm đội không quân Australia thiệt hại 15 chiếc. Các chiến dịch tàu sân bay Mỹ ở Đông Nam Á Hải quân Hoa Kỳ đã tiến hành “một cuộc chiến kéo dài nhất, cay đắng nhất, và đắt giá nhất” (René Francillon) trong lịch sử hàng không hàng hải từ ngày 2 tháng 8 năm 1964 đến 15 tháng 8 năm 1973 trên vùng Biển Nam Trung Quốc. Xuất phát từ hai cứ điểm là (Yankee Station và Dixie Station), tàu sân bay đã hỗ trợ các chiến dịch tấn công ở Nam Việt Nam và tiến hành các chiến dịch ném bom chung với Không quân Hoa Kỳ ở Bắc Việt nam trong các Chiến dịch Flaming Dart, Chiến dịch Rolling Thunder, và Chiến dịch Linebacker. 21 tàu sân bay (tất cả các tàu sân bay tấn công đang hoạt động trong giai đoạn đó trừ John F. Kennedy) được bố trí vào Lực lượng tấn công 77 của Hạm đội số 7 của Mỹ, tiến hành 86 cuộc tuần tra và hoạt động tổng cộng 9,178 trên giới tuyến tại Vịnh Bắc Bộ. 530 thiệt hại trong chiến đấu và 329 chiếc nữa vì tai nạn khi hoạt động, làm thiệt mạng 377 phi công của hải quân, cùng 64 người bị coi là mất tích và 179 người bị bắt làm tù binh chiến tranh. 205 sỹ quan và binh lính trên ba tàu sân bay (Forrestal, Enterprise, và Oriskany) tử trận trong các trận đánh lớn. Các tàu sân bay hiện nay Các tàu sân bay thường là những tàu lớn nhất được điều hành bởi các lực lượng hải quân; một chiếc thuộc lớp Nimitz được lắp hai lò phản ứng hạt nhân và bốn turbine hơi dài 1092 ft (333 m) và có giá khoảng 4.5 tỷ US dollar. Hoa Kỳ sở hữu nhiều tàu sân bay nhất với khoảng hơn mười chiếc đang hoạt động, và các tàu sân bay của họ là nền tảng để phô trương khả năng quyền lực Hoa Kỳ. Chín nước có sở hữu các tàu sân bay là: Hoa Kỳ, Anh Quốc, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Brazil, Italy, Ấn Độ và Thái Lan. Hơn nữa Quân đội giải phóng nhân dân nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sở hữu chiếc tàu sân bay cũ của Liên xô chiếc Varyag, nhưng đa số các nhà phân tích hải quân tin rằng họ không có ý định đưa nó vào sử dụng, mà chỉ sử dụng chiếc Varyag để học cách sử dụng các tàu sân bay Trung Quốc trong tương lai. Canada, Trung Quốc, Nhật Bản, Pakistan, Australia, Chile, New Zealand và Singapore cũng đang sở hữu các tàu mang máy bay trực thăng. Thông thường các tàu sân bay được hộ tống theo bởi nhiều tàu khác, để bảo vệ chiếc tàu to lớn đó, để cung cấp hậu cần, và để tăng khả năng tấn công. Những nhóm này thường được gọi bằng thuật ngữ nhóm chiến đấu hay nhóm tàu sân bay, thỉnh thoảng là một nhóm tàu sân bay chiến đấu. Các tàu sân bay hiện đại Việc sử dụng tàu sân bay gần đây gồm trong chiến tranh Falklands, khi Anh Quốc đã có thể chiến thắng trong một cuộc xung đột cách nước họ 8,000 dặm (13,000 km) phần lớn nhờ ở việc sử dụng chiếc tàu sân bay cỡ lớn HMS Hermes và chiếc nhỏ hơn HMS Invincible. Chiến tranh Falklands cho thấy giá trị của những chiếc máy bay kiểu VSTOL – chiếc Hawker-Siddeley Harrier (loại RN Sea Harrier và press-ganged RAF Harriers) trong việc bảo vệ hạm đội và lực lượng tấn công khỏi sự tấn công của các máy bay từ trên bờ và trong tấn công đối phương. Các máy bay trực thăng từ các tàu sân bay được sử dụng để triển khai quân và thu hồi quân lính bị thương. Người Mỹ cũng đã sử dụng các tàu sân bay ở Vịnh Péc xích, Afghanistan và để bảo vệ các quyền lợi của họ ở Thái bình dương. Gần đây nhất, trong cuộc tấn công Iraq năm 2003 đã đề cao khả năng của các tàu sân bay trong vai trò căn cứ hàng đầu của không lực Hoa KỲ. Thập chí không có khả năng có nhiều căn cứ không quân ở Trung Đông, Hoa Kỳ vẫn có thể tung ra những cuộc tấn công đáng kể từ các phi đội xuất phát từ các tàu sân bay. Đầu thế kỷ 21, các tàu sân bay trên khắp thế giới đã có khả năng mang khoảng 1250 máy bay. Hoa Kỳ chiếm hơn 1000 chiếc trong số đó; nước đứng thứ hai là Anh Quốc với hơn 50 chiếc. Anh Quốc và Pháp cả hai đều đang tiến hành mở rộng khả năng về tàu sân bay của họ (với một lớp tàu thông thường), nhưng Hoa Kỳ vẫn giữ vị trí đầu bảng của mình với khoảng cách khá xa. |
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn open vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
tiny (23-03-2010) |
#5
|
||||
|
||||
Bộ FDC sau open thích nhất là món này nhưng ..... ngắm từ xa thôi chứ làm sao bây giờ . |
#6
|
||||
|
||||
Sau đây là vài con lẻ, nhặt nhặn được trên net, mang ra cùng phuc vụ mọi người. Tạm đặt tên cho từng con vì thèm lắm nhưng ... ực ực làm sao mua được đây ...
Rẽ sóng lướt đi Chúng ta bên nhau Chìm òi ...... Con này BÁC HUỆ có tặng cho OPEN ( cả dấu mắt bò nữa ... hi hi) open cám ơn bác nhiều nhiều lắm ạ ! Đơn độc |
#7
|
||||
|
||||
hay quá xá em cũng rất mê tàu sân bay thank anh nhá
|
#8
|
||||
|
||||
Open ơi , cái con tem Mỹ chỗ Open ghi là chìm òi , có chưa Bác sẽ gửi tặng , mà nó phải là hàng không mẫu hạm không ?
|
#9
|
||||
|
||||
.........."Open ơi , cái con tem Mỹ chỗ Open ghi là chìm òi , có chưa Bác sẽ gửi tặng , mà nó phải là hàng không mẫu hạm không ?"................
Thưa Bác Huệ : Con mà áac đề cập open đã xem lại, hình như đó là TÀU ĐỔ BỘ dù sao cũng muốn mở rộng đề tài chơi nên open xin trân trọng được nhận nhã ý của Bác. Và thư sau mong Bác cứ gửi lên cho open, Bác nhé. Trân trọng! OPEN. |
#10
|
||||
|
||||
Hải quân Pháp đã đưa ra các kế hoạch cho một tàu sân bay thứ hai, để bổ xung thêm cho chiếc Charles de Gaulle. Thiết kế chiếc này lớn hơn, với phạm vi chiếm nước 50–60,000 tấn, và không sử dụng động cơ năng lượng hạt nhân như chiếc Charles de Gaulle. Đã có kế hoạch để biến Thiết kế hải quân Hoàng gia cho các chiến dịch CATOBAR (thiết kế Thales/BAE Systems cho hải quân hoàng gia là cho tàu sân bay STOVL có thể cải tổ cấu hình cho các chiến dịch CATOBAR).
Ấn Độ đã bắt đầu chế tạo một chiếc tàu sân bay 37,500 tấn, 252 mét dài vào tháng 4, 2005. Chiếc tàu sân bay mới sẽ có giá 762 triệu US dollar và sẽ mang theo các máy bay MiG 29K ‘Fulcrum’ và Sea Harrier cùng với các máy bay trực thăng do Ấn Độ và Nga cùng chế tạo. Chiếc tàu này sẽ có bốn động cơ turbine và khi hoàn thành sẽ có tầm hoạt động 7,500 dặm biển, mang theo 160 sỹ quan, 1400 binh lính và 30 máy bay. Chiếc tàu đang được đóng tại một xưởng đóng tàu nhà nước ở phía nam Ấn Độ. Năm 2004, Ấn Độ cũng mua chiếc Admiral Gorshkov từ Nga với giá 1.5 tỷ US dollar; nó đang sắp được biên chế vào Hải quân Ấn Độ vào năm 2008 sau khi được sửa chữa Việc chế tạo các tàu sân bay kiểu V/STOL cho Quân đội trên biển(Marina Militare) Cavour có động cơ quy ước đã bắt đầu năm 2001. Nó đang được Fincantieri của Italy đóng. Sau nhiều lần trì hoãn, Cavour được chờ đợi sẽ đưa vào phục vụ năm 2008 để hỗ trợ thêm cho những chiếc tàu sân bay trong lực lượng Quân đội trên biển hiện nay Giuseppe Garibaldi. Một chiếc thứ hai với phạm vi chiếm nước 25-30,000 tấn đang được Hải quân Italia trông đợi, để thay thế chiếc tàu đã bị loại bỏ Vittorio Veneto, nhưng vì các lý do tài chính, phát triển thêm nữa vẫn còn đang đứng im. Tháng 6, 2005, trên trang web boxun.com có thông báo rằng Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sẽ chế tạo một chiếc tàu sân bay có giá 362 triệu US dollar với trọng lượng nước rẽ 78,000 tấn, nó được chế tạo bởi Xưởng đóng tàu mật Jiangnan ở Thượng Hải. Báo cáo này đã bị quan chức Bộ quốc phòng Trung Quốc là Zhang Guangqin bác bỏ. Nhiều cuộc đàm phán trước kia để mua tàu sân bay từ Nga và Pháp đã không thành công. Hai chiếc tàu này sẽ là những chiếc tàu chiến lớn nhất từng được chế tạo cho Hải quân hoàng gia. Ban đầu chúng được định dạng cho các chiến dịch STOVL, những chiếc tàu sân bay có thể được điều chỉnh cho thích ứng với mọi kiểu thế hệ máy bay tương lai được bố trí trên chúng. Tây Ban Nha Dự án cho chiếc tàu dài 231 và lượng rẽ nước 25,000–30,000 tấn dùng động cơ quy ước Buque de Proyección Estratégica (tàu dự án chiến lược) cho hải quân Tây Ban Nha được thông qua năm 2003, và việc chế tạo nó đã bắt đầu vào tháng 8, 2005, công ty đóng tàu Navantia chịu trách nhiệm dự án. Chiếc Buque de proyección estratégica là một chiếc tàu được thiết kế để hoạt động như tàu tấn công đổ bộ và tàu sân bay kiểu VSTOL, phụ thuộc vào nhiệm vụ được giao. Thiết kế nó dành cho những cuộc xung đột ở tầm thấp mà có thể Hải quân Tây Ban Nha sẽ phải đối mặt trong tương lai. Khi hoạt động như một tàu sân bay kiểu VSTOL, tầm điều hành của nó sẽ khoảng 25,000 tấn, và nó sẽ mang tối đa 30 Matador AV-8B+, F-35 hay một nhóm hỗn hợp cả hai loại máy bay trên. Chiếc tàu này có một Sky-Jump và một hệ thống chiến đấu dựa trên radar ba chiều, và nó sẽ là chiếc tàu sân bay thứ hai của hải quân Tây Ban Nha sau chiếc Príncipe de Asturias Hải quân Hoa Kỳ Hạm đội những chiếc tàu sân bay Nimitz-lớp Hoa Kỳ sẽ tiếp tục được sử dụng (và trong một số trường hợp được thay thế) bởi chiếc CVN-21/CVNX Carrier. Họ hy vọng rằng những chiếc tàu này sẽ lớnhơn và sẽ mang hơn 80 máy bay hay nhiều hơn nữa so với lớp Nimitz, và cũng sẽ được thiết kế để khó bị radar phát hiện. Từ đầu thập niên 1990 trở đi, Hải quân LX lần lượt xây dựng các tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov (tên trước đó là Tbilisi), Varyag (tên trước đó là Riga), trọng tải 67.500 tấn, thủy thủ đoàn 1700 người. Đây là loại tàu sân bay đích thực có khả năng chở các máy bay cất-hạ cánh bình thường như Su-27K, Mig-29K, Su-25… Chiếc Đô đốc Kuznetsov được hạ thủy năm 1991 còn chiếc Varyag, khởi công chế tạo năm 1988 nhưng đến nay vẫn chưa hoàn chỉnh, vẫn còn nằm ? ? hải quân công xưởng Nikolayev Nam, Ukraina. Liên bang Nga hiện đang phát triển một thiết kế tàu sân bay mới. Chúng bắt đầu từ vạch xuất phát để chế tạo một kiểu hiện đại, với những vật liệu và thiết bị điện tử mới nhất. Nhu cầu có thể là hai chiếc – một cho Hạm đội Baltic Nga và một cho Hạm đội Thái bình dương Nga. Việc chế tạo được dự định bắt đầu từ năm 2010, và kết thúc sau khoảng 6 năm. Bài được open sửa đổi lần cuối vào ngày 16-10-2008, lúc 18:57 |
|
|