TONKIN hay TONQUIN?
2 File đính kèm
Năm 1883, Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ hai, buộc nhà Nguyễn ký Hiệp ước Harmand (25/8/1883) đầu hàng thực dân Pháp và Hiệp ước Patenôtre (6/6/1884), công nhận quyền bảo hộ của Pháp với vùng lãnh thổ còn lại của Đại Nam. Theo Hiệp ước Harmand, khu vực từ đèo Ngang trở ra bắc gọi là Tonkin (Bắc Kỳ). Hiệp ước Patenôtre quy định lại ranh giới Tonkin (Bắc Kỳ), theo đó Bắc Kỳ tính từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình trở ra. Năm 1885 Bắc Kỳ gồm có 13 tỉnh: Bắc Ninh, Cao Bằng, Hà Nội, Hải Dương, Hưng Hóa, Hưng Yên, Lạng Sơn, Nam Định, Ninh Bình, Quảng Yên, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Vùng đất Bắc Kỳ tồn tại trên danh nghĩa vẫn thuộc lãnh thổ của Đại Nam, nhưng trên thực tế thuộc quyền cai trị của Công sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin, dịch đúng là "Bắc Kỳ lưu trú quan đại thần") người Pháp. Các hiệp ước Pháp ký với triều đình nhà Nguyễn không được Trung Hoa công nhận. Phải đến sau Chiến tranh Pháp-Thanh (1884–1885), Pháp mới nắm toàn bộ chủ quyền của An Nam (miền Trung Việt Nam) và Bắc Kỳ. Năm 1887, Tonkin/Bắc Kỳ trở thành một xứ bảo hộ nằm trong Liên bang Đông Dương. "Tonkin" vốn là đọc trại âm tên Hán-Việt của địa danh Hà Nội, thời nhà Lê gọi là Đông Kinh (東京), trùng với tên của thủ đô Nhật Bản (Tokyo, viết theo chữ Hán cũng là 東京). Vì đó cũng là trung tâm hành chính và thương mại miền Bắc nên Tonkin được người phương Tây dùng để chỉ toàn xứ Đàng Ngoài thời Trịnh - Nguyễn phân tranh dưới nhiều dạng như Tunquin, Tonquin, Tongking, Tongkin, và Tonkin. Cách viết phản ảnh văn tự của người nước ngoài (như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh và Pháp) khi phát âm "Đông Kinh" (theo thông tin của Wiki, không rõ chữ nào viết theo tiếng nước nào, riêng chữ Tonquin là viết theo tiếng Anh). Sang thế kỷ 19 địa danh "Tonkin" được người Pháp chỉ định riêng xứ Bắc Kỳ của triều Minh Mệnh trở đi. Nhật ấn của các bưu cục thời Pháp thuộc phần lớn viết "Tonkin" để chỉ Bắc Kỳ, nhưng cũng có một số trường hợp viết thành "Tonquin," không rõ vì sao. Tên Tonquin này chủ yếu chỉ được dùng cho bưu cục Hải Phòng, phải chăng vì có người Anh ở đây? Các bì thư có dấu "Tonquin" không hiếm, nhưng có cả "Tonkin" và "Tonquin" như bì sau thì không nhiều. File Đính Kèm 88867 Mặt trước, nhật ấn HAIDZUONG/TONKIN 9-9-99 File Đính Kèm 88868 Mặt sau, nhật ấn HAIPHONG/TONQUIN 9-9-99, trung chuyển HONG-KONG, đến San Francisco 16-10-99. |
1 File đính kèm
|
Bác Kimma thân mến, tôi thấy con dấu TONQUIN nầy hơi lạ vì thường thường tên vùng, miền trên con dấu là đặt ở dưới, tên bưu cục đặt ở trên...Theo tôi con dấu này nếu đúng thì HAIPHONG phải ở trên và TONQUIN ở dưới...Do chữ HAIPHONG ở dưới đọc không được nên không biết đúng là HAIPHONG không?
|
1 File đính kèm
|
6 File đính kèm
Hải Phòng có lẽ là một trong những thành phố có tính "quốc tế hóa" sớm nhất Việt Nam. Ngoài hai cách phiên âm trên, còn có dấu "TONG-KIN":
Tôi muốn tìn dấu "TONG-KING" mà chưa thấy. Về việc "HAIPHONG" hay "HAIPHUNG" ở trên hay dưới, tôi thấy cũng bình thường, giống như "SAIGON" có thể ở trên hay ở dưới so với "COCHINCHINE". |
mạn đàm ngôn ngữ !
Trích dẫn:
còn sự biến âm un => ung hay un => on có lẽ cũng tương tự nhưng của chủng khác trong nhóm Anh - Pháp - Bồ .... Nếu có sự trợ giúp của chuyên gia ngôn ngữ chắc vấn đề sẽ rành rọt hơn. Còn người chơi tem chúng ta sẽ ko quan tâm chuyện đó nữa, cần tìn hiểu trong giai đoạn nào của 1 tỉnh hoặc thành phố ngày ấy, kiểu dấu nào được sử dụng. Thiết lập được 1 hệ thống đó chắc ko ai làm nổi, ko rõ người Pháp trong thời gian ở VN có hệ thống nó lại và lưu trữ ở 1 phương trời xa nào đó hay ko. Thôi, làm fiền topik của các pák nhìu kóa dồi, xin fép được dút (kâu nói L-) có sử dụng 1 số kí tự thay thế ko phải để làm rối mà chỉ như 1 ví dụ về các hiện tượng ngôn ngữ để chúng ta tham khảo) |
2 File đính kèm
Chợt thấy dấu TONGHINH - CHINE.... không rõ là dấu gì, có chữ Hán Đông Hưng... Nhờ các bạn đọc giúp.
|
"Vùng đất Bắc Kỳ tồn tại trên danh nghĩa vẫn thuộc lãnh thổ của Đại Nam, nhưng trên thực tế thuộc quyền cai trị của Công sứ Bắc Kỳ (Résident supérieur du Tonkin, dịch đúng là "Bắc Kỳ lưu trú quan đại thần") người Pháp."
Thời Pháp thuộc, "Resident" là viên quan Pháp cai trị một tỉnh, tiếng Việt tương đương là "Công Sứ." Còn "Resident Supérieur" là viên quan cấp trên của các "Resident," vì thế tiếng Việt gọi là "Thống Sứ." Ðây là những từ ngữ lịch sử, chúng (Công Sứ, Thống Sứ, Khâm Sứ, Thống Ðốc, Toàn Quyền...) bao hàm những nội dung phong phú nhưng khác biệt, cần cẩn thận khi sử dụng. |
Thời gian được tính theo giờ GMT +7. Bây giờ là 22:35. |
©2007-2024 Diễn đàn Viet Stamp
Cơ quan chủ quản: Câu lạc bộ sưu tập tem Viet Stamp (VSC)
Giấy xác nhận cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến số 87/GXN-TTĐT
do Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử cấp ngày 31-08-2011
Chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Anh Thi - Chủ nhiệm VSC
Bản quyền thuộc VSC. Địa chỉ: 2/47 Phan Thúc Duyện, Phường 4, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Điện thoại: (08) 38111467 – Website: vietstamp.net.vn – Email: vietstamp.net@gmail.com – Hotline: 0918 636 791
Vui lòng ghi rõ nguồn “Viet Stamp” khi phát hành lại thông tin từ diễn đàn này.
--------------------
Mã nguồn: vBulletin v3.8.3 & Copyright © 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.
Diễn đàn Viet Stamp có giấy phép sử dụng từ Jelsoft Enterprises Ltd.