Xem riêng 01 Bài
  #23  
Cũ 28-01-2011, 16:21
hoang.le's Avatar
hoang.le hoang.le vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
 
Ngày tham gia: 09-07-2010
Đến từ: Hà Nội
Bài Viết : 78
Cảm ơn: 2,782
Đã được cảm ơn 783 lần trong 92 Bài
Mặc định 14. Dân tộc Dao

DÂN TỘC DAO


Tên tự gọi : Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng)

Tên gọi khác : Mán, Ðông, Trại, Dìu Miền, Kim Miền, Lù Gang, Làn Tẻn, Ðại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Ðầu

Nhóm địa phương : Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài)

Nhóm ngôn ngữ : Mông - Dao (ngữ hệ Mông - Dao)

Dân số : 685.432 người (ước tính năm 2003)

Cư trú : Dân tộc Dao phân bố xen kẽ với nhiều dân tộc từ biên giới Việt - Trung, Việt - Lào tới một số tỉnh trung du và ven biển Bắc Bộ. Trong đó tập trung ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Sơn La, Hòa Bình, Phú Thọ,... Một số khác sinh sống ở miền trong như Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Nông và miền Đông Nam bộ (Đồng Nai, Bình Phước).

Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.

Đặc điểm kinh tế - Hoạt động sản xuất : Người Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương và lúa nước với nông cụ sản xuất thô sơ nhưng kỹ thuật canh tác khá tiến bộ. Họ vừa làm nương vừa làm ruộng. Xưa kia họ chuyên du canh du cư, nghĩa là sau dăm bảy năm họ bỏ làng bỏ bản đi tìm vùng đất mới. Ngày nay người Dao đã bỏ phong tục đó, xây dựng cuộc sống mới định canh định cư, vừa phát triển nương rẫy vừa bảo vệ và khai thác rừng hợp lý. Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tùy từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ nuôi nhiều lợn, gà, nhưng chủ yếu dùng trong những ngày ma chay, cưới xin, lễ tết. Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê. Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm. Một số nghề thủ công đã phát triển như dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu… Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu... Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.

Tổ chức cộng đồng - Quan hệ xã hội : Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ. Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.

Hôn nhân gia đình : Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai. Sau khi cưới, người con trai phải đến ở rể nhà vợ. Thời hạn ở rể có thể một vài năm hoặc có thể vĩnh viễn.

Sinh đẻ : Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.

Tục lệ ma chay : Ma chay theo tục lệ xa xưa. Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. Ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.

Văn hóa - Văn nghệ : Người Dao có nền văn hoá và lịch sử lâu đời. Mặc dù cơ sở kinh tế nói chung còn thấp, nhưng tri thức dân gian rất phong phú, đặc biệt là y học dân tộc cổ truyền. Họ không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hoá gọi là chữ Nôm Dao. Họ có kho tàng truyện cổ tích, thơ ca, hò vè được phổ biến rộng rãi, kể về các đề tài: đấu tranh với thiên nhiên, lao động sản xuất, quan hệ xã hội và gia đình,... thể hiện ước vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc v.v... như những truyện “Hai chị em”, “Bắt yêu tinh”. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo. Các nhạc cụ truyền thống được sử dụng như: trống, chiêng, chuông.

Nhà cửa : Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất. Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú tuỳ nhóm mà ở nhà sẽ nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà nửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất, là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm bằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới.


Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hố, các hạt gạo vẫn giữ nguyên vị trí là có thể làm nhà được.

Trang phục : Trang phục của hai nhóm Dao ở Quảng Ninh về cơ bản giống nhau: áo dài, quần, yếm, dây lưng, mũ khăn, xà cạp... Chỉ khác nhau ở cách tạo hình trang trí hoa văn. Áo, quần đều màu đen hoặc màu chàm.


+ Trang phục nam : Nam mặc quần, áo. Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Ngày nay, hầu hết đã cắt tóc ngắn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.

+ Trang phục nữ : Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần áo ngắn hoặc dài màu chàm và đầu đội khăn. Y phục rất sặc sỡ. Hiện trang phục nữ vẫn giữ được các nét hoa văn truyền thống. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.


Ăn : Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Thức ăn của người Dao chủ yếu là măng, rau, thỉnh thoảng có thịt cá. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết. Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay. Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.

Thờ cúng : Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo, có một số tục lệ thờ cúng phức tạp và tốn kém. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Người Dao thì tin rằng vạn vật đều có linh hồn gọi là “Hon” hoặc “Vần”. Khi một thực thể bị chết thì hồn lìa khỏi xác và biến thành ma. Theo quan niệm này bất kỳ ở đâu trên trái đất này đều có hồn và ma. Người Dao cũng thờ cúng tổ tiên như nhiều dân tộc khác. Bàn thờ dòng họ được đặt ở nhà tộc trưởng. Nhưng nói đến phong tục người Dao phải nói tới lễ cấp sắc. Đây là một nghi lễ, một sinh hoạt mà không một người đàn ông dân tộc Dao nào không trải qua, một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa. Hiện nay ở tất cả các làng của người Dao các em trai ở lứa tuổi từ 13 - 14 tuổi được làm lễ cấp sắc. Lễ được diễn ra rất thiêng liêng có thầy cúng và bà con trong bản chứng kiến. Những chàng trai người Dao sau khi được cấp sắc coi như có quyền làm người lớn và chịu trách nhiệm trước cộng đồng dân tộc của mình.

Phương tiện vận chuyển : Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.

Lịch : Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.

Học : Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, Nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.

Chơi : Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.

(nguồn: Cổng thông tin điện tử Chính phủ, Ủy ban Dân tộc, Cuộc sống Việt)

Bài được hoang.le sửa đổi lần cuối vào ngày 02-02-2011, lúc 15:09
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
8 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hoang.le vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
Đêm Đông (20-02-2011), Dat_stamp (16-04-2012), hat_de (28-01-2011), laklih (29-01-2011), Poetry (15-04-2012), thantrongdao (02-02-2011), Tien (28-01-2011), tranhungdn (16-04-2012)