Vế sau "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" nằm trong câu đối
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”"
"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
được cho là gắn liền với tên tuổi
Giang Văn Minh.
Theo wikipedia:
Giai thoại về Giang Văn MInh
Vào thời điểm ông đi sứ, mặc dù
nhà Mạc đã bỏ chạy ra
Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) với mục đích để cuộc
chiến tranh Lê-Mạc kéo dài
[4]. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đến Yên Kinh (nay là
Bắc Kinh) vào năm 1638.
Đến khi triều kiến,
Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (tức hoàng đế Sùng Trinh) lấy lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” để ngăn trở việc công nhận sự chính thống của nhà Hậu Lê và bãi bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc.
Đồng thời, Chu Do Kiểm còn ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối như sau:
“Đồng trụ chí kim đài dĩ lục”" Nghĩa là:
Cột đồng đến nay rêu đã xanh[5] Câu này có hàm ý nhắc tới việc
Mã Viện từng đàn áp cuộc
khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
Mộ Thám hoa Giang Văn Minh
Trước sự ngạo mạn đó, Giang Văn Minh đã hiên ngang đối lại bằng câu:
"Đằng Giang tự cổ huyết do hồng"
Nhà thờ Thám hoa Giang Văn Minh
Nghĩa là:
Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ[5] Vế đối này vừa chỉnh, vừa có ý nhắc lại việc người Việt đã ba lần đánh tan quân xâm lược phương Bắc trên sông
Bạch Đằng.
Vào thời bấy giờ, câu đối này được xem là cái tát thẳng vào mặt hoàng đế nhà Minh trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước. Vua nhà Minh bừng bừng lửa giận quên mất thể diện thiên triều, bất chấp luật lệ bang giao, đã trả thù bằng cách trám đường vào miệng và mắt ông, rồi cho người mổ bụng xem
“bọn sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Nhưng Minh Tư Tông vẫn kính trọng ông còn cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước
[5][6] Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua
Lê Thần Tông và chúa
Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông
[5] và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công
[1], ban tặng câu
“Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là
Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ)
[7].
Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm
[7]. Trên cánh đồng này có một quán (hiện có dạng ngôi nhà) nhỏ là nơi linh cữu ông đã được quàn và gọi là quán quàn. Hiện nay, nhà thờ ông ở làng Mông Phụ đã được nhà nước
Việt Nam xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa
[5].
Ở Hà Nội hiện nay có một con đường mang tên Giang Văn Minh, nối với phố Giảng Võ và phố Kim Mã,
quận Ba Đình.
[8]