#1
|
||||
|
||||
Hình tượng Dê trong đời sống văn hóa Việt Nam
Năm 2015 là năm Ất Mùi, năm “cầm tinh” con Dê. Ất Mùi là sự kết hợp thứ 32 trong hệ thống đánh số Can Chi của người Á Đông, được kết hợp từ thiên can Ất (Mộc âm) và địa chi Mùi (Dê hoặc Cừu). Trong 12 con giáp, Dê được xem là biểu tượng của tính ôn hòa, thuần hậu nhưng không kém phần nhanh trí. Dê là một trong những thần vật được người Ai Cập sùng bái vì sự đóng góp quan trọng của Dê đối với đời sống con người. Một số dân tộc còn dùng Dê làm vật tế thần. Người Ai Cập dùng dê dâng cho cái ác thần để thay thế cho con người. Do được thuần dưỡng từ rất sớm, sử dụng phổ biến, liên tục, lâu dài, mang giá trị vật chất đa dạng và mật thiết, nên dê cũng tạo ra giá trị tinh thần phong phú, ảnh hưởng dâu rộng đến tâm linh và đời sống văn hóa nghệ thuật của người Việt Nam. Nó là một trong 6 loài vật nuôi thông dụng nhất trong mỗi gia đình (Lục súc: Dê, gà, chó, lợn, ngựa, trâu) và một trong ba thứ lễ vật đặc biệt (tam sanh: Dê, lơn, bò) để cúng tế, dâng thần thánh. Trong sự kết hợp giữa thiên can và địa chi để tính thời gian và chu kỳ phát triển, dê nhập hệ lịch 12 can chi 12 con vật, là biểu tượng chi Mùi - một chi quan trọng, mang những ý nghĩa triết lý và nhân văn sâu sắc. Giờ Mùi kéo dài từ 13 đến 15 giờ, thời gian mở đầu buổi chiều, con người vừa ăn trưa xong, đang thảnh thơi nghỉ ngơi và sung mãn bước vào buổi lao động buổi chiều (Giờ Mùi thuộc Dê bởi sau khi cỏ lá bị dê ăn thì vào giờ này cũng có sức tái sinh mạnh nhất). Tháng Mùi con người cũng vừa thu hoạch xong vụ chiêm, dồi dào sinh lực. Quan niệm tín ngưỡng còn cho rằng người sinh năm Dê (Mùi) thường mưu trí, nhiệt tình, năng động, tài giỏi, thành đạt và gặp nhiều may mắn, hạnh phúc trong đời. Chúng ta còn nhớ câu ca dao: Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi Riêng tôi ngậm ngùi mang lấy tuổi Thân Có ý nghĩa xuất phát từ quan niệm đó. Ngôn ngữ luôn là nền tảng của đời sống tinh thần và văn hóa của con người. Trong ngôn ngữ Việt Nam, hình ảnh con dê xuất hiện khá đa dạng, sinh động và đầy ngụ ý. Chúng ta gặp “dê” (dương) ở nhiều lĩnh vực ngôn từ: Tự nhiên và xã hội; lý thuyết sách vở và giao tiếp thực tiễn. “Máu dê” thể hiện khả năng sinh dục mạnh mẽ; “râu dê” mô tả bộ dâu rậm, dài, hơi cong; “sữa dê” nói lên sự bổ dưỡng, nguồn thu nhập lớn, mới lạ; “dê cụ” ám chỉ kẻ rất dâm đãng”; “thói dê” khái quát bản tính ham muốn chinh phục người khác giới... Dê hiện diện trong nhiều loại địa danh: từ núi đồi, sông suối, bến đảo, ga chợ đến tên lãnh thổ hành chính các cấp: Làng Dương Xá (Hà Nội), huyện Sơn Dương (Tuyên Quang), tỉnh Bình Dương v.v... Dê vốn được dùng phổ biến để làm thực phẩm và dược liệu nên tên nó cũng được đặt cho nhiều loại thực vật - nhất là những cây trồng để ăn và chế biến thuốc: Cây tiết dê, cỏ móng dê, cà dái dê, cây sừng dê, dâm dương hoắc, dương tử tô, dương đề, tỏa dương... Dê còn được lấy làm đối tượng cho hàng trăm câu ngạn ngữ, phương ngữ, tục ngữ, thành ngữ, ca dao sinh động, dân dã mà thâm thúy. Tiêu biểu như: - "Bán bò, tậu ruộng, mua dê về cày" mỉa mai cách thức làm ăn trái khoáy, không biết tính toán hoặc bỏ vật hữu ích để chuốc lấy thứ chẳng ra gì. - "Cà kê dê ngỗng" đánh giá sự kể lể tản mạn, dài dòng, huyên thuyên những chuyện lặt vặt, vớ vẩn. - “Chăn dê uống tuyết” ngầm chỉ nghị lực cao, sẵn sàng chịu đựng lâu dài đói khổ, thiếu thốn, tủi nhục để giữ vững lòng trung thành hoặc thực hiện mục tiêu cơ bản của mình. - "Máu bò cũng như tiết dê" nhìn nhận coi hai chuyện, hai sự việc, sự vật chẳng khác gì nhau mấy về mọi phương diện. - "Giàu nuôi chó, khó nuôi dê, không nghề nuôi ngỗng" là kinh nghiệm về thời điểm chăn nuôi những con vật có ích cho điều kiện kinh tế của bản thân, gia đình hoặc xác định, lựa chọn những hoạt động phù hợp với năng lực, hoàn cảnh v.v... Dê cũng là hình ảnh tiêu biểu đi vào văn thơ, góp phần tạo nên những tác phẩm nổi tiếng thuộc nhiều thể loại và ở mọi thời đại. Từ các áng văn chính luận sắc bén chống giặc như “Hịch tướng sĩ” (Thế kỷ 13) của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (Có câu “Tắc lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem tấm thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”) hay Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc (Thế kỷ 19) của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu (Có câu “Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”) đến thơ ca lãng mạn trữ tình như bài “Dê cỏn” (Thế kỷ 18) của bà chúa thơ Nôm - nữ sĩ Hồ Xuân Hương: Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ Lại đây cho chị dạy làm thơ Ong non ngứa nọc châm hoa sữa Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa. Hay thi phẩm "Cung oán ngâm khúc" của văn thần Nguyễn Gia Thiều (có câu "Phải duyên hương lửa cùng nhau/ Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào") v.v... Còn trẻ em Việt Nam khi chơi trò dung dăng dung dẻ thường thuộc lòng bài đồng dao vui nhộn: Dung dăng dung dẻ Dắt trẻ đi chơi Đến cửa nhà trời Lạy cậu lạy mợ Cho cháu về quê Cho dê đi học Cho cóc ở nhà Cho gà bới bếp Ngồi xệp xuống đây. Thi sĩ Bùi Giáng (1926-1998) cũng có bài thơ ghi lại cảnh chăn dê ở quê nhà, núi đồi Quế Sơn tỉnh Quảng Nam, trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1952): Ðồi tăm tắp chạy về ôm chân núi San sát đồi phủ phục quần núi xanh Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh Thôi từ nay tha hồ em mặc sức Nhảy múa tung sườn núi vút dòng khe Thôi từ nay tha hồ em mặc sức Vang vang lên đồi núi giọng be be... Ngẩng đầu lên! Dê ơi anh thong thả Ðeo vòng vào em nghển cổ cong xinh Ngẩng đầu lên! Đây lòng anh vàng đá Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên... Hình ảnh dê trở nên sinh động, gần gũi hơn qua những trò chơi và lễ hội truyền thống. Phổ biến mà đặc sắc nhất vẫn là trò “bịt mắt bắt dê”. Trò chơi này thường được tổ chức trong những ngày vui (hội đầu xuân, trung thu...) hoặc các cuộc chơi thể thao văn hóa dân dã với cách khác nhau tùy thuộc đối tượng tham dự. Nếu là trẻ em, một em nhỏ bịt mắt phải đuổi bắt trong khu vực sân nhiều em khác giả làm dê vừa di chuyển vừa kê “be, be...”. Nếu là người lớn, trò chơi còn ngộ nghĩnh hơn vì con dê thực được thả vào sân, hai người (một nam, một nữ) bị bịt mắt đuổi bắt nó; cả ba đều khoác áo tơi, chân đeo lục lạc nên phát ra những âm thanh giống nhau khi chạy nhảy, khiến hai người khó phân biệt nổi, vì vậy nhiều lúc không bắt được dê mà lại... ôm chầm lấy nhau, gây tiếng cười sảng khoái, thích thú cho người xem. Ở một lĩnh vực khác, tĩnh lặng nhưng phong phú, bền vững là hình tượng dê trong kiến trúc, tạo hình, trang trí. Dê được thể hiện khá đa dạng trên tranh, bia, miếu, đình, đền, chùa, rạp, nhà, công sở... với đủ loại chất liệu: Đất, đá, vữa, bạc, đồng, gỗ, mực... và bằng nhiều kỹ thuật: Tạc, đắp, nặn, xăm, chạm, khắc, đúc, nung, vẽ... Trong lục súc, có lẽ dê là hình tượng tiên phong xuất hiện ở các chùa chiền cổ xưa - nơi vốn thường chỉ thấy hình ảnh các loài linh vậtlinh thiêng, cao quý (rồng, hổ..). Chẳng hạn, tại bệ đá đặt tượng Phật của ba chùa Bối Khê, Trung, Quế Dương ở Hà Tây (niên đại cuối thế kỷ 14) đều có khắc hình dê vui tươi, miệng ngậm cành lộc, đầu ngoảnh về phía sau. Tạik bệ đá chùa Vắp ở Yên Bái cũng khắc hình dê tương tự (nhưng miệng không ngậm gì). Chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh (niên đại đầu thế kỷ 17) hiện diện hơn 50 bức chạm nổi trên lan can đá, trong đó có một bức bên trái thượng điện chạm rất tinh tế ba con dê: Một con nằm nhởn nhơ trên cỏ, hai con còn lại với tư thế sinh động khác nhau đang ngầng nhìn bầu trời cao rộng có vầng dương lấp ló sau áng mây. Cùng niên đại này, tại nhiều chùa khác còn thấy trang trí những hình tượng dê đang đùa giỡn vui nhộn (đôi lúc đến mức hài hước) trên bia và khánh đá. Trong nhóm tượng đất, tượng gốm, tượng gỗ cổ truyền thường gặp bức Tô Vũ chăn dê ghi lại cảnh sứ giả nhà Hán không chịu hàng phục bạo chúa Hung Nô nên phải uống tuyết để đỡ đói khát, bị ép buộc đi chăn dê, chịu nhục gần 19 năm vẫn giữ trọn lòng trung quân, ái quốc; bức Hai dê qua cầu diễn tả hai chú dê húc nhau giữa chiếc cầu cong do chẳng con nào chịu nhường đối phương; bức Mẹ con nhà dê thể hiện sự âu yếm của dê mẹ với đứa con hiếu động. Tranh vẽ dê cũng xuất hiện khá sớm, đặc sắc nhất là bức Lục hợp đồng xuân của dòng tranh Hàng Trống (Hà Nội) vẽ cảnh ông già ngắm xem 6 cháu đang nô đùa với dê và bức Bịt mắt bắt dê của làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh) vẽ cảnh một chú dê vừa chạy trốn vừa ngoái nhìn đôi thanh niên nam nữ mắt bịt kín đang lần mò tìm bắt nó. Những thập niên gần đây, tranh dê còn thu hút năng lực sáng tạo của không ít họa sĩ Việt Nam hiện đại, thuộc mọi trường phái, thể hiện dưới nhiều bút pháp. Tiêu biểu nhất là họa sĩ Phạm Văn Tư, đầu năm 1991, anh triển lãm 120 bức tranh vẽ toàn về dê với đủ đề tài, bằng những sáng tạo độc đáo, mới lạ, đem lại nụ cười hóm hỉnh và ấn tượng bất ngờ khó quên cho người xem. Nguồn : http://sinhcafehn.com
__________________
3T -> Thân Thiện - Trí Thức - Tình Nghĩa
Trăm Năm Trong Cõi Người Ta Tem Bì Bưu Ảnh Là Moa Ưa Rùi Văn Chương Súng Ống Nửa Mùa Chõ Mồm Một Tí Nói Đùa Ace Ơi! |
3 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn HanParis vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
#2
|
||||
|
||||
Tuổi trẻ Pháp của những năm 60, 70 rất thích những năm Dê Dê (YéYé) loại nhạc rất phổ biến tại Pháp vào thời đó. Còn VN ta thích những năm Dê Dê (Năm Mùi) hơn, nhất là Nam giới. Hàn mới ST vài ảnh Dê từ miền nắng ấm Cali (US) mời bạn xem chơi. Dù rằng :
Dê già chớ gặm cỏ non Ăn vào mắc họng, tại con dê già Cụ Dê vừa đi diển hành vừa ngậm cỏ non thoải mái!
Dê buồn rầu vì thua bạc 3 ngày Tết. Hết tiền đi Dê. Dê nghe ngựa nói dê quá tệ, Liền chạy ra vác mặt, vênh râu; Dê nói rằng: "Ta đọ với nhau, Thử anh lớn hay là tôi lớn. Anh đã từng vào dinh, ra trấn, Sá chi tôi tiểu thú quê mùa ? Mạnh thì lo việc nước, việc vua. Song chớ khá cậy tài, cậy tướng, Ai có tài, chủ ban chủ thưởng, Ai không công, tay làm hàm nhai, Chẳng dám ăn lúa má, môn khoai; Không hề phạm đậu mè, hoa quả. Khuyên khuyên chớ nói ngang nói ngửa, Bớt bớt, đừng ỷ thế, cậy tài, Ai chẳng biết đuôi ngựa thì dài, Dài thì để xua mòng, đuổi muỗi; Vốn như đây đuôi tuy vắn vỏi, Đây cũng không mượn ngựa nối thêm. Ngàn dặm trường, mặt ngựa khoe êm. Ba gò sỏi, dê đà xong việc. Việc dê thì dê biết, Việc ngựa thì ngựa hay Bừa cày, có thú bừa cày, Kiệu tế, có muông kiệu tế, Dê vốn thật thuộc về việc lễ, Để hòng khi về hạng tư văn; Để dành khi tế thánh, tế thần, Lại có thủa kỳ yên, kỳ phước. Hễ có việc, lấy dê làm trước, Dê dâng vào người mới lạy sau. Ngựa tuy rằng hình tượng lớn cao, Tam sanh lễ, ai dùng đến ngựa ? Dầu đến việc làm đình, làm chợ, Cũng lấy dê trảm thảo, bồi cơ; Nhẫn đến ngày mạng tướng xuất sư, Cũng lấy dê khấn cầu tổ đạo. Lễ cốc sóc thánh nhân còn bảo: Tử Cống sao dê sống bỏ đi ? Ngựa nói ngang mà chẳng biết suy, Dê nào có thiếu chi công trạng ? Nói cho xứng đáng, Há dễ cơ cầu, Dê tuy rằng vô vĩ, vô đầu, Quan phong Trường tu chủ bộ. Hèn như dê mà dám đọ, Tiện như dê, quí bất khả ngôn. Ngựa rằng: Ngựa ở chốn quyền môn, Phong cho ngựa chức chi nói thử ? Thưa chủ nghiệm việc dê với ngựa, Cân mà coi, ai trọng, ai khinh ?" Năm tới anh khỉ mới nhảy vào thi thố! Ace rán chờ nhé Nguồn : VietLand
__________________
3T -> Thân Thiện - Trí Thức - Tình Nghĩa
Trăm Năm Trong Cõi Người Ta Tem Bì Bưu Ảnh Là Moa Ưa Rùi Văn Chương Súng Ống Nửa Mùa Chõ Mồm Một Tí Nói Đùa Ace Ơi! |
2 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn HanParis vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
manh thuong (04-03-2015), NHL-2014 (04-03-2015) |
Công Cụ | |
Hiển Thị Bài | |
|
|
Những Đề tài tương tự | ||||
Ðề Tài | Người Tạo Đề Tài | Trả Lời | Bài Mới Nhất | |
Tem trong văn khố | The smaller dragon | Sinh hoạt BAN CỐ VẤN | 0 | 31-03-2013 07:49 |
Hình ảnh trong Phiên chợ Tem - Tiền Hoàng Văn Thụ ngày 20-12-2009 | Poetry | Hoạt động offline | 2 | 21-12-2009 08:11 |
Phó Chủ tịch thường trực Hội Tem Việt Nam Vũ Văn Tỵ gặp thân mật Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ Viet Stamp | Poetry | Bảng tin Viet Stamp | 0 | 15-06-2009 03:04 |
Tem Việt Nam sắp phát hành trong quý 3 & 4 năm 2009 | Poetry | Bản tin Tem trong nước | 2 | 13-06-2009 07:45 |
Cách sử dụng các Nút Công Cụ trong Cửa sổ Soạn thảo Văn bản | *VietStamp* | Hướng dẫn sử dụng Diễn đàn VIET STAMP | 0 | 03-11-2007 21:20 |