#1
|
|||
|
|||
Các Chủ Đề Hàng Hải Trên Tem
Noah Trong Kinh thánh, phần Chúa sáng tạo ra thế giới trang 6 đến trang 8 đã mô tả rất cụ thể về con tàu của Noah như sau: dài 450 feet, rộng 75 feet, cao 45 feet (theo người Do Thái thì kích thước là 300 cubit (1 cubit bằng 45.72cm), 50 cubit và 30 cubit. Con tàu được làm từ gỗ cây bách, được bôi hắc ín cả bên trong và bên ngoài, có 3 boong là boong dưới, boong giữa và boong trên, có cửa sổ ở trên nóc để thông gió và một cửa bốc dỡ hàng hoá ở thân tàu. Từ Ark - Con tàu, có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Latinh là từ "arca", nghĩa là cái hộp, chính từ này đã cho chúng ta thêm một dẫn chứng lí giải về hình dáng của nó. Theo như những số liệu ở trên, thì con tàu này có khoang chứa xấp xỉ 100.000 feet vuông, và có tải trọng hàng hoá lên đến 1,5 triệu cubit. Rất nhiều nhà sử học đã cố gắng xác định thời gian xảy ra trận lụt ở Noah, và kết luận là thuộc khoảng năm 2900 đến năm 5500 trước công nguyên. Bởi thế những con số trên nên được tính toán lại kĩ lưỡng. Thông tin về thảm hoạ lụt lội và việc xây dựng con tàu không phải là thông tin độc nhất đối với bản dịch tiếng Do Thái của Kinh thánh. Câu truyện dựa phần lớn vào những truyền thuyết cổ xưa về vùng đất xung quanh sông Euphrates và sông Tigris. Người Assyry, người Babylon và người Hittles có những câu truyện của riêng họ về trận đại hồng thuỷ và những trận lụt lớn. Câu truyện nổi tiếng nhất đã được kể lại chi tiết trong thiên sử thi Gilgamesh. Người anh hùng trong trận lụt đó có tên là Utnapishtim. Cũng như Noah, chàng nhận được nhiệm vụ phải xây dựng một con tàu, và "để mang theo những hạt giống phục vụ cho cuộc sống cong người". Cũng có một bản dịch khác được tìm thấy trong kinh của đạo Hồi. Nội dung của nó cũng gần giống như truyền thuyết của các thổ dân sống ở vùng California và Alaska đã kể về một trận lụt lớn nhấn chìm cả vùng đất. Trong truyền thuyết của người Hawaii cũng kể về 2 người sống sót trên đỉnh Mouna-Kea khi những hòn đảo bị nhấn chìm dưới biển nước. Năm 1968, Israel đã cho xuất bản một bộ 5 con tem mô tả về thảm hoạ kinh hoàng này. Con tem đầu tiên mệnh giá 0.12 mô tả cảnh Noah đốn cây và chế tạo lớp vỏ con thuyền. Nhìn vào con tem thứ 2 mệnh giá 0.15, chúng ta có thể thấy gia đình Noah cùng với từng đôi một các con thú tiến gần con thuyền. Tiếp đó, trời đổ mưa 40 ngày và 40 đêm, điều này được mô tả trên con tem thứ 3 mệnh giá 0.35, với những con sóng thần và những tia chớp giật trời. Sau 40 ngày mưa gió, Noah đã 3 lần gửi một con quạ và sau đó là một con chim bồ câu bay đi trong 7 ngày, điều này được mô tả trên con tem thứ 4 mệnh giá 0.40. Lần thứ nhất, con chim bồ câu quay trở lại con thuyền mà mỏ không có một chút thức ăn, như vậy trái đất vẫn chìm trong biển nước. Lần thứ 2 con chim quay về với một chiếc lá oliu, và Noah biết rằng nước đã bắt đầu rút đi. Lần thứ 3 thì con chim không quay lại, và Noah đã mở khoang thuyền của mình. Con tem cuối cùng thể hiện hình ảnh chiếc cầu vồng, đó là dấu hiệu của Chúa về lới hứa với con người sau trận lụt. Khi bắt đầu trận đại lụt, Noah đã 600 tuổi. Cùng với Noah trên tàu còn có vợ, 3 con trai và những cô con dâu. Thời gian ở trên tàu kéo dài hơn 1 năm. Theo Kinh thánh thì 5 tháng cuối họ đã dời lên những dãy núi ở Ararat. Rất nhiều đoàn thám hiểm đã cố gắng tìm ra vị trí của con tàu. Những cuộc nghiên cứu, đào bới, thăm dò địa chất xuyên qua lớp địa hình rộng lớn của các dãy núi. Có một số nhà thám hiểm khẳng định đã tìm thấy nó ở cách núi Ararat khoảng 32 km, ở gần sườn của núi Judi, vị trí chính xác mà kinh Koran mô tả nó nằm ở bên sườn đất. Ấn tượng về một con tàu có kích thước xấp xỉ như con thuyền trong câu truyện được cho là đã được tìm thấy ở đó, và cũng có khá nhiều cuộc tranh cãi về sự khám phá này. Theo sử thi Gilgamesh, người anh hùng Utnapishtim đã neo con tàu của mình ở núi Nisir, phía đông bắc Bagdad. Thật khó để tin nhưng cũng tồn tại những giả thuyết cho rằng các loài vật sống vào thời đại của Noah đều được mang theo mà chứa trong khoang của chiếc tàu. Các nhà thần học đang thống kê những cuộc tranh luận thiếu tính xác thực để bác bỏ những giả thuyết về điều này trong kinh thánh. Vì Noah không chở theo các loài động vật biển nhưng số lượng các loài động vật có xương sống thống kê được cũng xấp xỉ 21.100 loài. Theo tính toán thì chúng sẽ chiếm khoảng 300.00 cubic. Với khoảng 1,5 triệu cubic tính tổng, còn rất nhiều chỗ trống cho các loài động vật, tính cả những phòng dự trữ. Hơn nữa có nhiều loài động vật thì ngủ hè, còn một số khác lại ngủ đông. Điều gì là nguyên nhân gây ra trận đại hồng thuỷ lúc đó? Kinh thánh đã kể về 40 ngày đêm mưa liên tục. Có một nghiên cứu đã thử tính toán tổng lượng hơi nước hiện có trong không khí. Giả định là tất cả chúng rơi xuống trái đất trong một trận lụt lớn, kết quả là lượng nước sẽ tăng lên chỉ khoảng 1 inch. Do vậy theo một số học giả thì có thể là do một sao chổi hoặc một thiên thạch đã rơi xuống trái đất và tạo nên một trận đại hồng thuỷ với những con sóng thần ngập tràn hành tinh. Một giả thuyết hiện đại hơn thì cho rằng biển Địa Trung Hải, biển Marmara và biển Đen bị bao bọc bởi đất liền đồng thời. Từ kỉ Băng hà khoảng 18.000 năm trước, những dòng sông băng tan chảy đã làm cho mực nước biển Địa Trung Hải dâng cao không ngờ, làm ngập biển Marmara, sau đó là vụ nổ khổng lồ ở Bosphorus làm nước tràn vào Biển Đen. Giả định này được cho là đã xảy ra vào khoảng 7500 năm trước, và có lẽ đó cũng được đặt tên là Thời kì lụt nước. Có rất nhiều những truyền thuyết hoặc câu truyện được xây dựng từ một chi tiết có thật. Noah chắc chắn là phải có một đội quân đóng tàu hùng hậu thời cổ đại. Và trong hàng nghìn năm thì con tàu của ông ta trở thành con tàu lớn nhất mọi thời đại. Nhưng xét theo khía cạnh khác, cũng có thể là không....
Bài được hienthuong sửa đổi lần cuối vào ngày 05-11-2008, lúc 00:45 |
15 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hienthuong vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
Đêm Đông (02-11-2008), chimyen (01-01-2009), hat_de (02-11-2008), helicopter (08-11-2008), huuhuetran (09-11-2008), huybh (04-11-2008), JT'M (02-11-2008), manh thuong (02-11-2008), Nguoitimduong (02-11-2008), open (02-11-2008), Poetry (02-11-2008), Tien (04-11-2008), tiny (24-05-2010), xihuan (02-11-2008), zodiac (08-01-2009) |
#2
|
|||
|
|||
Chủ đề hàng hải trên tem
Những con thuyền đầu tiên - Thuyền độc mộc Chủ đề lần này chỉ đề cập đến những con thuyền hoặc xuồng có đặc điểm giống thuyền độc mộc được làm từ một thân cây. Các loại thuyền khác sẽ được giới thiệu vào lần sau. Thuyền độc mộc được xem như là loại thuyền đầu tiên được con người chế tạo nên. Theo như học thuyết "vượt Châu Phi", thuyền độc mộc xuất hiện lần đầu tiên là vào khoảng 40.000 năm trước. Những người tiền sử đã dùng khoang của những thân gỗ trôi dạt để di chuyển dọc theo dòng nước. Sau đó, một số cây gỗ được cột với nhau tạo thành những bè lớn. Tiếp theo, những than gỗ đó được đục rỗng để tạo thành thuyền độc mộc. Vào năm 1997, một con thuyền độc mộc 7000 năm tuổi đã được tìm thấy ở song Shannon thuộc vùng Ireland, một năm sau đó một chiếc thuyền độc mộc dáng mảnh có tuổi thọ 8000 năm đã được phát hiện ở Nigeria. [ Thuyền độc mộc không phải là loại thuyền của riêng một vùng nào cả, nó được chế tạo trên khắp thế giới. Thậm chí ngày nay, chúng cũng tồn tại ở những vùng nhiệt đới. Những chiếc thuyền độc mộc của người châu Âu có độ dài là 4 đến 6 m, được làm dựa vào độ dài của thân gỗ. Các vùng rừng mưa nhiều thì có thể có những chiếc thuyền độc mộc với chiều dài lên đến 20 hoặc 30m. Những thân gỗ này có nguồn gốc từ những cây bị nhổ bật rễ trong tự nhiên hoặc các cây bị đốn hạ do mục gốc. . Lửa cũng được sử dụng trên các thân gỗ để làm cháy bớt phần xù xì, nó được tạo ra bởi các dụng cụ đánh lửa bằng xương hoặc đá. Đất ẩm hoặc rêu được dùng để ngăn việc lửa cháy ra xung quanh nếu thành gỗ quá mỏng Thuyền độc mộc ở Bengal được đục rộng hơn bằng cách đổ nước sôi vào lớp vỏ cây và bóc tách các lớp riêng với một dụng cụ bào ngang.Một chiếc thuyền độc mộc thường dễ bị lung lay hoặc lật úp. Để giữ nó ổn định, con người đã phát minh ra mái chèo, đó là một khúc gỗ khác có thể ngắn hơn và nhẹ hơn so với chiếc thuyền. Nó được buộc chặt song song với chiếc thuyền và dung bằng cách khua ngang linh hoạt, điều này giúp chiếc thuyền có thể lướt êm trên song.. Chính phương pháp này được sử dụng rộng rãi ở các quần đảo thuộc Đông Nam Á và khắp vùng Thái Bình Dương.[*] Mái chèo được sử dụng một bên hoặc có thể cả hai bên mạn thuyền; mái chèo đòi hỏi phải được lắp phù hợp với cột và với buồm. [ Những chiếc sào cũng được sử dụng để di chuyển ở vùng nước nông; mái chèo cũng được dùng nếu nó thích hợp với việc ngồi hoặc hạ chân từ đầu gối xuống bên trong lòng thuyền.' ] Vùng Caribe, thuyền độc mộc được gọi là "canoa" hoặc "cenu", hoặc là từ "canoe" trong tiếng Anh. Chúng ta đã từng biết đến đế chế Hispaniola đã sử dụng những chiếc thuyền 80 người chèo và dài đến 30m. Có những kích cỡ phổ biến hơn đã được thể hiện trên những con tem này. Chiếc xuồng ở bên phải là chiếc xuồng chiến lướt trên dòng nước. Thuyền độc mộc được sử dụng để đi lại, vận chuyển hàng hoá, đánh cá, sử dụng trong các cuộc đua và cả trong chiến tranh. Trong chiếc tem bên trái, một con cá mập đang bị bẫy; còn chiếc tem ở giữa và bên phải mô tả một chiếc xuồng đang lướt điệu nghệ qua những con sóng. Thuyền độc mộc có buồm là loại thuyền có thêm một tấm ván được gắn vào bên mạn thuyền để giữ thăng bằng tốt hơn, nó được mô tả khá kĩ lưỡng ở con tem bên phải. Chiếc thuyền độc mộc với kích thước lớn nhất được làm ở Châu Phi nơi mà có những cây gỗ cực lớn được tìm thấy. Chúng có thể dài đến 30 đến 40m và có thể chứa được đến 80 tay chèo. Sau khi chấm dứt các cuộc cướp bóc nô lệ và chiến tranh giữa các bộ lạc, những chiếc thuyền độc mộc được làm để phục vụ trong các cuộc đua. []Cho đến ngày nay, những chiếc thuyền rồng của Trung Quốc là những chiếc thuyền lớn nhất. ]Nhìn con tem bên trái chúng ta có thể thấy một chiếc thuyền độc mộc với mái chèo và cánh buồm, đó là một dạng thuyền có thể sử dụng để tiến hành những cuộc du lịch trên biển. Những chiếc chèo vững chắc và khoẻ mạnh cho phép thiết lập những cánh buồm lớn hơn nhiều. Con tem bên phải là hình ảnh một "camaku", một loại thuyền nhỏ với mái chèo và cánh buồm dành cho vùng nước ven biển. Phần đuôi hình cánh cung của con thuyền có hình giống như cái cột có thể xoay được, nó dùng để định hướng cho cánh buồm. Mái chèo thì luôn hướng về chiều gió. Thuyền Lakatoi là một loại thuyền thủ công hạng lớn được tìm thấy ở vùng duyên hải New Guinea. Chiếc khung bên ngoài bao gồm 2, 3, hoặc 4 con thuyền nhỏ được gắn với nhau bằng một thanh ngang và được đặt ở trên bằng một tấm ván phẳng ghép bằng tre. Thường thì có những lều nhỏ phía trên sàn này, hoặc có thể là 1 hoặc 2 cột chống. Những cánh buồm hình móng vuốt chân thú thông thường được làm từ những tấm thảm dệt từ lá và cành của cây sagu. Nhưng cũng có những cánh buồm 4 mặt và có hình elip. Thuyền chiến của vùng biển Nam. Chiếc thuyền bao gồm 2 khoang rỗng được ghép với nhau bằng một tấm ván, một cây cột và một cánh buồm. Có 10 tay chèo trên thuyền. Các chiến binh được trang trí bằng các hình chiến đấu trên khuôn mặt và cơ thể họ. [*]Thuyền lễ của người Haida là biểu trưng ở đây được triển lãm lâu đời trong bảo tàng lịch sử tự nhiên của thành phố New York. Những người Haida trên quần đảo Nữ hoàng Charlotte thuộc vùng biển phía Tây Canada đã chế tạo những chiếc thuyền dài từ 15 đến 20m, được làm từ gỗ của cây tuyết tùng. Những chiếc thuyền này có chiều rộng xấp xỉ 2m, có sức chứa khoảng 5 tấn, và có đội chèo khoảng 10 người (thường là nô lệ của bộ lạc) và người chỉ huy. [*]Một số con thuyền dùng để đi biển đã được ghép bằng các cây cột và cánh buồm. Phần đầu như chúng ta nhìn thấy ở đây được trang trí với các hình vẽ hoặc hình chạm khắc. Những con thuyền này được dùng trong buôn bán thương mại, chiến đấu và trong các dịp lễ kỉ niệm. http://tim.vietbao.vn/thuy%E1%BB%81n...c_m%E1%BB%99c/ Thuyền độc mộc chứa đầy tính nghệ thuật và khoa học trên thế giới. Bên trái là một hình chạm khắc của một mô hình thuyền cổ. Còn bên phải là thiết kế của một "chiếc thuyền bay" được làm bởi Francesco Lana-Terzi, một giáo sư vật lý và toán học ở Brescia, Italy vào năm 1670. Chiếc thuyền không phải là một hình ảnh tưởng tượng thực sự nhưng đó là kết quả tính đó lại sợ hãi một sự phật lòng thtoán chi tiết của toán học dựa trên tiên đề cơ bản của Archimedes và Euclid. Không khí được hút một lần vào 4 khối cầu, chiếc thuyền trở nên nhẹ hơn và tầng khí xung quanh làm nó có khả năng bay lên. Chao ôi, chiếc thuyền bay này lại không thể chế tạo, bởi vì vị giáo sư tài giỏi sợ phiền lòng thần thánh. Bài được hienthuong sửa đổi lần cuối vào ngày 11-11-2008, lúc 01:11 |
11 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hienthuong vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
Đêm Đông (22-11-2008), chimyen (01-01-2009), hat_de (04-11-2008), helicopter (08-11-2008), huuhuetran (06-11-2008), laklih (06-03-2011), manh thuong (04-11-2008), Nguoitimduong (04-11-2008), Poetry (04-11-2008), xihuan (11-11-2008), zodiac (09-02-2009) |
#3
|
|||
|
|||
Thuyền Kayak và thuyền da của người Eskimos Người Eskimos tự gọi mình là Inuits đã sinh sống được hàng nghìn năm ở phía Bắc Mỹ, Greenland và Siberia. Họ thuộc chủng Mông-gô-lô-ít, có tất cả khoảng 135,000 người và nói một thứ tiếng chung. Thuyền kayak của người Eskimos là loại thuyền một người được làm từ gân vỏ các loại cây, hoặc là các khúc xương được bọc bằng da của hải cẩu hoặc sư tử biển. Những chiếc xương đó được bảo vệ bởi một lớp da bên ngoài. Chiếc thuyền có một chỗ ngồi ở giữa và di chuyển được nhờ 2 mái chèo. Các thợ săn Eskimos ngồi trong thuyền kayak, mặc bộ trang phục có mũ trùm bằng da và long. Bộ áo này vừa khít với cổ tay và khuôn mặt, do vậy nước không thể thấm vào trong. Bằng việc đóng chiếc thuyền lại hoặc chui ra ngoài khỏi bộ áo choàng đó, chiếc thuyền được gắn kết chặt chẽ và tuyệt đối kín nước. Cả người và thuyền tạo thành một thể thống nhất với nhau. Qua nhiều thế kỉ, có một vài loại thuyền kayak khác nhau được sử dụng phụ thuộc vào các vùng và các mục đích khác nhau. Loại thuyền kayak ngắn và nhỏ nhất được gọi là "koryak". Nó chỉ dài 10 feet và được sử dụng cho đi săn ở vùng Kamchatka. Ở Greenland, chiều dài của thuyền kayak có thể lên đến 20 feet, chiều rộng là 1.5 feet. Ở một số vùng thuộc đảo Aleutian và Alaska, có một số loại thuyền kayak dài hơn dành cho 2 hoặc 3 người đi. Việc chế tạo lớp vỏ và khâu vá lớp da bên ngoài thuyền do những người phụ nữ Eskimos đảm nhiệm. Da và các mũi khâu sẽ được bôi trơn bằng mỡ hải cẩu và dầu cá. Lớp da bên ngoài phải được thay định kì 2 năm một lần. Nếu chiếc thuyền kayak sử dụng thường xuyên hàng ngày thì phải thay lớp da bọc 1 năm 1 lần.
Thuyền kayak được sử dụng chủ yếu để săn hải cẩu (chó biển hoặc sư tử biển), các loại chim và tuần lộc. Người thợ săn sử dụng một chiếc xiên, một cây lao móc được cột chặt với bộ da bơi. Lớp da sẽ ngăn con vật không thể lặn mất được. Nó còn được coi như dấu hiệu giúp xác định vị trí của con mồi. Việc săn bắt hải cẩu răng quặp là nguy hiểm nhất. Loài vật này có thể chiều dài đến 15 feet, nặng gần 1 tấn và có cặp răng dài đến 2 feet. Những con hải cẩu răng quặp thường cố gắng tấn công thuyền và nó hoàn toàn có thể dễ dàng phá huỷ chiếc thuyền. Ở Bắc Greenland, người Eskimos thường sử dụng thuyền kayak mở vì vậy họ có thể ra khỏi chiếc thuyền một cách nhanh nhất có thể. Một vài con thuyền có thể kết hợp với nhau khi săn hải cẩu răng quặp.. Trên con tem phía bên trái bạn có thể nhìn thấy một con hải cẩu bị trúng nhát xiên, còn con tem bên phải là cuộc đi săn tuần lộc. Ngày nay, súng trường đã thay thế cho lao. Trong suốt quãng thời gian người Đan Mạch xâm chiếm Greenland làm thuộc địa, thuyền kayak còn được sử dụng như một phương tiện bưu chính, ví dụ như vận chuyển thư đến các vùng xa xôi. Thuyền kayak luôn được gửi thành từng đôi một vì những lí do an toàn. Những lá thư được cất kĩ trong những chiếc túi chống thấm nước giấu sau người chèo thuyền, trông giống như bộ đồ bơi của người thợ săn vậy. Bạn có thể thấy điều này được miêu tả cụ thể ở con tem trên đầu trang này. Thuyền da là một loại thuyền mở được sử dụng để săn cá voi và để đi lại ( nó thậm chí còn được người Eskimos gọi là "thuyền nữ"). Nó gồm một bộ khung bằng gỗ được bọc bằng da của hải cẩu. Những chỗ khung và cột chính được buộc chặt bằng các dây chằng và các dây da.. Người ta không dùng đinh vì chúng có thể bị gỉ và làm hòng lớp da bên ngoài thuyền. Phần đuôi trên của bộ khung thuyền được buộc chặt với cây gỗ giúp giữ cho chỗ ngồi được vững chắc. Trên thuyền, các thanh kèo bên dưới được buộc cố định bằng nút hình chữ thập. Chiều dài trung bình của một chiếc thuyền da có thể từ 22 đến 33 feet, chiều rộng khoảng 5 feet. Đôi khi thuyền da còn có một cột buồm nhỏ ở đầu với một cánh buồm hình vuông được làm từ da của tuần lộc (nhìn con tem ở trên). Thuyền da được gọi là "thuyền nữ" bởi vì sẽ là một sự xỉ nhục với người đàn ông nếu chạm vào mái chèo trên chiếc thuỳen này. Người đàn ông ngồi ở đuôi thuyền và chỉ hướng còn người phụ nữ thì chèo thuyền. Chiếc thuyền này có thể chở từ 10 đến 12 người, khi lên bờ thì 6 người có thể khiêng được nó. Thuyền da được dùng để vân chuyển, khi cả gia đình muốn thay đổi chỗ ở và cần phả chuyển theo một lượng lớn đồ đạc. Nó cũng dùng để săn bắt hải cẩu hoặc là cá voi. Săn cá voi là một truyền thống cổ xưa. Trong truyền thuyết của người Eskimos tồn tại một cộng đồng thân thiện giữa con người và loài cá voi. Vì thịt cá voi có thể cung cấp thực phẩm cho cả làng trong nhiều tháng nên cá voi tượng trưng cho tính đồng nhất giữa con người và tự nhiên. Linh hồn của một con cá voi bị giết sẽ trở về với nước và tái sinh. Những người đánh cá voi mang chiếc túi chống nước được gọi là "jumping furs". Chúng có thể được bơm căng lên và bảo vệ người thợ săn khỏi nước lạnh trong một thời gian. Người thợ săn nhảy lên lưng của con vật bị đâm lao và giữ chặt nó cho đến khi con vật chết. Trên đảo Aleutian, đầu của những ngọn giáo được tẩm thuốc độc. Nó đủ để tạo ra một vết thương lên mình con cá voi. Con cá voi sẽ chết và bị đẩy giạt vào bờ biển bởi gió và dòng nước Ngày nay, có khoảng 100 loại thuyền kayak khác nhau. Chúng ta có thể chia thành các loại thuyền kayak dành cho du lịch, thuyền kayak trên biển và thuyền kayak trên nước mạnh. Có loại ít phổ biến hơn là loại thuyền gập và thuyền kayak ống có thể bơm hơi phồng lên. Tất cả những loại thuyền kayak ngày nay đều được chế tạo theo kiểu một hoặc hai chỗ ngồi. Các cuộc đua thì dùng thuyền 4 người chèo. Con thuyền được làm từ nhựa như sợi thuỷ tinh, carbon, Kevlar …(thuyền nhựa), hoặc sợi poly tổng hợp (vì vậy còn được gọi là thuyền sợi nhựa điện phân) Bài được hienthuong sửa đổi lần cuối vào ngày 11-11-2008, lúc 01:13 |
6 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hienthuong vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
Đêm Đông (22-11-2008), chimyen (01-01-2009), hat_de (09-11-2008), manh thuong (09-11-2008), Nguoitimduong (06-11-2008), xihuan (11-11-2008) |
#4
|
|||
|
|||
Những con thuyền cướp biển
Những con thuyền cướp biển là một phần lịch sữ của người trên bán đảo Scandinavi, bao gồm các nước Đan Mạch, Na Uy, và Thụy Điển. Chúng đươc chế tạo từ thế kỉ thứ 7 đến thế kỉ thứ 11. Những con tem này cho thấy những hình ảnh được khắc trên đá vào khoảng 1000 năm trước công nguyên. Bạn có thể thấy một con thuyền nhỏ được mệnh danh là thiên thần của loại thuyền cướp biển. Vào thời gian đó, những con thuyền chỉ có duy nhất một chiếc khung gổ được bọc bằng da động vật. Về sau, những lớp da này lại được thay thế bằng các tấm ván lót làm bằng gổ. Đặc điểm nổi bật của loại thuyền cướp biển này là có mủi thuyền đôi. Vào năm 1921, một con thuyền như vậy đã được phát hiện ở Danish, thuộc đảo Alsen, về sau nó được gọi là con thuyền "Hjortspring". Nó dài 13m, rong 2m, và có 16 mái chèo. Một con thuyền cướp biển điển hình có một cái vòm thẳng đứng và phần đuôi thuyền đươc chỉnh cân bằng, nâng cao hơn so với mực nước và có cấu tạo tương tự. Phần giữa lòng thuyền thì hơi nông, và những tấm ván đươc xếp gối lên nhau một cách sơ sài, vì vậy nó đươc gọi là một kiến trúc sai lầm, có thể xem trên con tem phía dưới. Thuyền cướp biển được chế tạo chủ yếu từ gổ sồi và gổ cây sam. Nhìn con tem phía bên phải bạn có thể thấy một thợ thủ công người Norman đang làm việc, họ xẻ các tấm ván từ những thân cây và đóng chúng vào thành thuyền. Bức tranh này được chụp từ một tấm thảm ở nhà thờ lớn của xứ Bayeux, Normandy, nước Pháp. Phía dưới mặt nước, những tấm ván chỉ được gắn vào những tấm gổ mỏng để tăng tối đa độ co giãn cho con thuyền. Rể của cây gổ sam được xẻ ra, bện chặt lại để tạo thành những sợi dây thừng. Phía trên mặt nước, những chiếc đinh gổ hoặc sắt được đóng chặt vào theo phương phâp thông thường. Cuối cùng, những tấm ván được bọc bên ngòai bằng lông của động vật có phủ hắc ín. Tất cả những mái chèo đều có những chiếc cọc ngắn gắn với thuyền, chiều cao không vượt quá 10m. Để xác định mức giới hạn chiều cao của cột, con thuyền được xây dựng với chiều rộng khoảng từ 12 đến 15m. Tất cả các cánh buồm đều hình chữ nhật, đươc làm từ sợi len hoặc vải lanh dệt kép. Tơ làm cho cánh buồm khỏe hơn, một tấm lưới được phủ lên bề mặt. Tấm lưới này thường có màu sắc là các ô màu đỏ hoặc kẻ sọc. Nếu trong điều kiện ẩm ướt, những cánh buồm sẽ trở nên rất nặng và giảm sự ổn định của thuyền. Thuyền cướp biển có thêm một bánh lái rất tuyêt hảo. Đó là một mái chèo ngăn và dày, được buộc chặt vào khối gổ bởi sợi dây thừng ở phía bên phải của con thuyền. Mái chèo điều khiển này có thể được dùng như một đòn bẩy quay xung quanh điểm tựa của nó. Nguời cầm chèo sẽ sử dụng nó với mái chèo của bánh lái. Với lí do này, phía bên phải của con tàu được gọi là mạn phải (xuất phát từ cụm từ "steering board") cho đến tận ngày nay. Đối với tất cả các loại tàu đi biển, thì luôn luôn có những kiểu tàu cướp khác nhau xuất hiện trong suốt các giai đoạn, chủ yếu là tàu buôn và tàu chiến. Chiếc thuyền rộng (Drakars), thuyền dài (skuders), và thuyền nhỏ (karvis) đều là những loại thuyền ra đời sau này. Thuyền buôn hoặc thuyền đi biển cao cấp (hafskips) bao gồm hai loại là Knorr và Byrdingr. Đôi khi thuật ngữ "longboat" được sữ dụng cho cả thuyền buôn. Thuyền có mái chèo đươc gọi là Batrs, nhưng từ thế kỉ 7, tất cả các con thuyền lớn hơn đều có cột buôm và có cánh buồm. Khi các thủy thủ chèo hoặc chiến đấu thì cột buồm được hạ xuống. Tuy nhiên vẫn có một số con thuyền được xây dựng mà không có cột buôm. Duòi đây là một số kiểu thuyền buôn Knorr và Knarr: dài 16m, rộng 4 đến 5m, một buồm, 3 hoặc 4 đôi mái chèo ở phía mủi thuyền và phần duới thuyền có dây chằng với cánh bưồm. Chúng có thể chở được 15 tấn hàng, trong điều kiện thuận gió, những con thuyền này có thể đạt tốc độ lên đến 8 hải lí. Chúng đuợc dùng để thám hiểm và thực hiện các chuyến du lịch biển cũng như đi theo các lịch trình buôn bán điển hình. Chiếc Knorr là loại tàu biển cao cấp tiêu chuẩn của thuyền Viking. Phía bên trái chúng ta có thể thấy Skuldelev, chiếc thuyền số 1, được phát hiện ở Danish Roskilde Fjord vào năm 1957. Đó là kiểu thuyền Knorr điển hình. Loại tàu buôn Byrding thì nhỏ hơn loại Knorr, có chiều dài tối đa là 12m. Chúng được dùng chủ yếu ở biển Baltic, và một số học giả gọi nó là Baltic Sea knorr. Toàn bộ số tem Thụy Điển phía trên đã mô tả lại chân dung kiểu thuyền Byrding. Một chiếc thuyền chiến lớn được gọi là thuyền rồng (Drakar/Dreki). Thuyền rồng là kiểu thuyền đô đốc, đứng đầu trong các loại thuyền. Chiều dài của nó lên đến 48m, rộng 7 hoặc 8m, có 70 đến 80 mái chèo. Những cánh buồm có chiều rộng lên đến 21m. Đội thủy thủ gồm 300 nguời, họ đôi khi cũng làm tay chèo trên thuyền luôn. Trái với những loại khác của kiểu thuyền này là có một tấm ván to,cao nối với thuyền để hổ trợ cho các thủy thủ trong các trận đánh. Một trong những chiến thuyền nổi tiếng nhất là Ormen Lange, của vua Olaf Tryggvason, chế tạo năm 998 sau công nguyên. Trên con tem phía bên phải, bạn có thể thấy chiến thuyền đang vượt qua một cơn bão lớn. Một loại chiến thuyền khác đó là dạng thuyền dài, chia thành hai phần, được gọi là Skuder, Skaid hoặc Skeidh, có 60 mái chèo, còn loại Snigge, Knekja hoặc Schnigge thì có 40 mái chèo. Kích thước của chúng dài 30m, rộng 6m, tầm nước rẽ là 0.8m, có thể chở 200 người, cột buồm cao 9m, cánh buồm rộng đến 15m. Nếu căng hết buồm ra, con thuyền có thể đi được với vận tốc 11 hải lí, Người Na uy nói còn có thể đạt tới vận tốc 20 hải lí hoặc hơn. Tầm rẽ nước nhỏ cho phép con tàu đi được trong những con sông và các vùng nước nông. Con tàu sẽ dễ dàng được đẩy ra biển và thực hiện một cuộc hành trình ngắn vượt qua cửa biển bằng cách dùng các thanh gỗ cuốn. Con tem này mô tả một loại tàu thân dài với dáng mảnh dẻ. Trên các loại tàu chiến, cả mũi tàu và đuôi tàu đều được trang trí bằng các hình trạm khắc công phu. Đầu con rồng là các hình trạm khắc phổ biến nhất, nó phỏng theo hình đầu bò đực, rắn, hoặc rồng đất (Ormen Lange, xem ở trên, có nghĩa là con rồng đất dài) Trong truyền thuyết về thuyền Viking, các con rồng thường phun lửa mũi của chúng, vì vậy mục đích của những hình trang trí kinh rợn này nhằm để đe doạ hoặc gây nên nỗi sợ hãi từ trong chính kẻ thù. Ở con tem phía bên trái, bạn có thể thấy hình đầu một con rồng lớn. Có một điều hài hước là tất cả đầu rồng đều dịch chuyển và xếp gọn lại được, khi trở về nhà, chúng có thể dùng để doạ ma. Đuôi thuyền và hai bên mạn thuyền cũng được trang trí. Thông thường, các tấm khiên chắn của thuỷ thủ được treo ở chỗ tay vịn lan can. Trên đỉnh của cột buồm thường có hình một con chim rất đẹp quay theo chiều gió để xác định đường. Trên con tem này, bạn có thể nhìn thấy một chiếc thuyền Viking trên một khối đá từ thế kỉ 8. Khối đá này được tìm thấy trên đảo Swedish ở Gotland, bạn có thể nhìn rõ cánh buồm, thuỷ thủ, những chiếc khiên của họ, mũ sắt và cả hình trang trí. Cụm từ Viking không phải là tên của một quốc gia hay một bộ tộc đặc biệt nào mà là tên của một nghề nghiệp. Có một từ cổ là từ "vikingr" nghĩa là "người đàn ông đi ra biển ăn trộm" hoặc gọi tắt là "cướp biển". Franconian gọi họ là Normans. Trong suốt quãng thời gian đó, những con thuyền cướp biển nhỏ đã tấn công cả Bỉên Bắc và biển Baltic. Những con thuyền cướp biển mang theo những kẻ cướp hung ác và tàn bạo. Những cuộc chiến cướp bóc lớn cùng với những cuộc tấn công có chuẩn bị kĩ lưỡng với những hạm đội lớn đã tấn công quần đảo Anh và đe doạ nước Pháp. Trên con tem này, bạn có thể thấy các chiến binh trên thuyền cướp biển, được trang bị khiên, gươm, rìu chiến, khăn trùm đầu và đội những chiếc mũ giáp (không có sừng), một loại trang phục tiêu chuẩn. Trong suốt thời gian tấn công, họ sử dụng cả giáo mác và cung tên. Thuyền cướp biển được chế tạo chủ yểu phục vụ cho các khu dân cư nhỏ của người Scandinavi. Hầu hết mọi người đều là những người đinh cư, buôn bán và cả những thợ đóng thuyền tài giỏi. Chính những tên cướp biển cũng tấn công lẫn nhau. Cuộc xâm lược quần đảo Anh do người Normans tiến hành là một ví dụ. Quân đội của Harold Godwinson và bá tước William của xứ Normandiy đã thực hiện một trận chiến đẫm máu ở Hastings vào năm 1066. Harold đã chiếm được phần đất khá lớn của người Đan mạch và của quốc vương Thuỵ Điển. William thì chiếm được đảo Rollo của Na Uy. Ông ta đã từng giúp đỡ cho vị vua nước Anh không có con là Edward trước đó và từng hứa sẽ trả lại ngai vàng. Những chiến binh của William đã đổ bộ lên miền nam nước Anh và đánh thắng quân đội của Harold. Lịch sử trận đánh ở Hastings đã được thêu dệt và tạo thành hình ảnh tiêu biểu trong tấm thảm nổi tiếng Bayeux, có chiều dài 70m. Bạn có thể nhìn thấy bộ 6 con tem của Jersey với những hình ảnh trên tấm thảm này, chỉ có vài con tem của Pháp hoặc vương quốc Anh là có. Tấm thảm này đã trở thành đề tài để mô phỏng của rất nhiều con tem trên khắp thế giới. Trong khoảng năm 860 sau công nguyên, con thuyền cướp biển đầu tiên đã cập bờ Iceland. Chúng là những tên trộm và những kẻ mà xã hội ruồng bỏ, sống ở Foroyars và bị đánh giạt vào bờ bởi một cơn bão. Trong suốt quãng thời gian đó, hòn đảo đã có một vài cái tên khác nhau như Snowland, Gardarsholm, và cuối cùng nó mang tên Iceland. Trên con tem này , bạn có thể thấy con thuyền của Ingolf Arnarson. Ở mũi thuyền, một vài chiến binh quăng cột trụ của chiếc ghế cao xuống biển, đó là một nghi thức thường thấy. Theo truyền thống, vị trí mà chiếc cột chạm đến trên bờ biển sẽ là nơi tốt nhất để định cư. Và bằng chứng còn lại chính là Vịnh sương khói Reykjavik, ngày nay là thủ đô của Iceland. 150 năm sau (vào năm 1010), Iceland đã có dân số lên đến 60.000 người. Những con thuyền cướp biển đã đạt được những thành công lớn trong lĩnh vực hàng hải và đi biển. Thật kinh ngạc không hiểu sao họ có thể thành công trong việc vựơt qua phía bắc biển Atlantic mà chỉ sử dụng các thiết bị đi biển thô sơ (không có cả la bàn), và kiên trì chống chọi lại được những cơn bão lớn. Bất chấp hoàn cảnh, họ nhanh chóng thiết lập những lịch trình và hoạt động cho các thuỷ thủ. Bình thường, chuyến đi sẽ bắt đầu ở phía nam Na Uy, vượt qua Shetlands, sau đó đi qua Foroyar, rồi đến Iceland. Chiều dài khoảng 730 hải lí, hầu hết các con thuỳên phải mất từ 5 đến 6 ngày để hoàn thành lịch trình. Một câu chuyện dân gian kể lại một chuyến đi trong một thời gian kỉ lục là 4 ngày đêm. Nếu đó là sự thật, con thuyền phải đạt tốc độ trung bình là 7.5 hải lí. Eric, Red là người bị xã hội ruồng bỏ vì tội ác đánh hàng xóm. Lệnh cấm kéo dài 3 năm, nhưng trong suốt thời gian đó, hắn ta đã khám phá ra Greenland (Gronland) và chuyển đến sống ở đó. Con trai hắn ta là Leif Herjolfsson rất nổi tiếng đã tình cờ phát hiện ra Châu Mỹ, Một cơn bão đã đẩy hắn trôi giạt theo hướng tây như lịch trình hắn dự định đi. Vào năm 1001, Leif Eriksson đã đi thuyền đến châu Mỹ, sử dụng chỉ dẫn của Bjarni, và đến bờ biển nơi mà ngày nay gọi là Newfoundland. Ở đó, anh ta đã tìm thấy quả berry, và gọi đất nước này là Vinland (Wineland). Những chùm nho ở đây giữ cho lịch sử của các thế hệ nơi đây không bị nhầm lẫn, bởi trên thực tế thì họ không trồng trọt gì ở Newfoundland. Vùng đất của Leif đã dịch chuyển một vài lần ở những nơi khác nhau giữa Miami và Newfoundland. Con thuyền cướp biển đó đã cố gắng đến để định cư trên Vinland, nhưng chúng đã phải từ bỏ ý định đó sau nhiều năm, vì nếu tiếp tục, chúng sẽ phải chiến đấu với người bản địa. Nhìn con tem bên trái, bạn có thể thấy thuyền Knorr của Leif đang thẳng hướng Tây Nam đến vùng Newfoundland. Con tem bên phải thì có hình ảnh chùm nho. Nhưng thực tế thì mọi người gọi đó là quả trứng cá dại, trứng cá mọng hoặc quả nho ngọt màu đỏ. Bài được hienthuong sửa đổi lần cuối vào ngày 11-11-2008, lúc 04:59 |
5 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hienthuong vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
chimyen (01-01-2009), hat_de (09-11-2008), manh thuong (09-11-2008), xihuan (11-11-2008), zodiac (08-01-2009) |
#5
|
|||
|
|||
Hanseatic League và những con tàu của họ. Từ thế kỉ 11, có rất nhiều hội buôn ở châu Âu đã liên kết tạo thành một tập đoàn mang tên Hanseatic League (Hanse nghĩa là đông, cộng đồng). Tiêu chí ban đầu của hội là mở rộng tối đa độ an ninh cho các chuyến buôn trong hành trình của họ. Từ thế kỉ thứ 12, hiệp ước chung này đã mở rộng ra và trở thành liên minh của các thành phố thuộc miền Bắc Đức. Số lượng các thành viên tham gia liên minh này lên đến 200 thành phố ở Châu Âu. Hanseatic League đã mở rộng phạm vi từ bán đảo Scandinavia cho đến Thượng Italia, từ Anh cho đến tận nước Nga. Hanseatic League có sức ảnh hưởng lớn đến kinh tế, chính trị, đời sống văn hoá ở các quốc gia Châu Âu trong gần 4 thế kỉ. Các tuyến đường thương mại chính trên biển Bắc và biển Baltic được miêu tả cụ thể trên tấm bưu thiếp này. Na Uy, Anh, và Pháp cũng như các chuyến đường thuỷ trên sông ngòi và các hành trình trên đất liền đã bị bỏ qua. Hanseatic League sử dụng các bánh răng trên các con tàu mà họ chọn. Các bánh răng này đã được cải tạo thêm trên thuyền Knorrs của những tên cướp biển. Chúng có những tấm ván lót cao, hình tròn, và cả ván làm bằng chất rắn thô với mũi thuyền dốc và sống giữa thuyền thẳng. Tỉ lệ chiều dài và chiều rộng là 3 trên 1. Một boong tàu rắn đặc nối tiếp dùng để bảo vệ hàng hoá trên tàu. Những chiếc bánh răng đầu tiên vẫn có những chiếc bánh lái cổ ở bên mạn phải của tàu, chỗ này sau này đã được thay thế bằng bánh lái đặt ở đuôi tàu. Những con tàu có một cột buồm đơn, đặt cùng với cánh buồm mặc dù các mái chèo vẫn được sử dụng trong một thời gian dài. Trên con tem phía bên trái, bạn có thể nhìn thấy một cái bánh răng được khai quật ở gần Bremen vào năm 1962. Mọi người dự đoán nó được chế tạo vào năm 1380, theo một tài liệu về một trong những loại bánh răng nhỏ với các kích thước như sau: dài 77ft, rộng 23ft, dày 7 ft, có thể tải được 42 đến 60 load hàng, xấp xỉ 120 tấn, và chứa được 15 đến 20 thuỷ thủ. Vào thời điểm lượng hàng chứa được được tính bằng load, điều này mặc dù có khác so với bây giờ. Có rất nhiều load hàng muối, lúa mạch, cá trích… Với những chiếc bánh răng một load hàng có thể lên đến gần 2 tấn. Vào đầu thế kỉ 14, phần khoang phẳng được xây dựng ở phía trước mũi tàu và phía đuôi các bánh răng để làm chỗ tập hợp cho các thuỷ binh, nó còn được gọi là các chỗ điểm phòng thủ hẹp. Đỉnh của cột buồm cũng được dùng như một đồn chiến. Cột buồm có chiều cao đạt xấp xỉ, có 4 chân cắm trên bề rộng sàn tàu, khoảng 39 đến 79 ft, rộng khoảng 540 đến 1530 ft vuông so với diện tích mặt buồm. Nếu thuyền gặp gió lớn có thể đi được với vận tốc 5 đến 6 hải lí, tối đa lên đến 8 hải lí. Trên con tem phía bên trái là hình ảnh một chiếc tàu với phát minh về cánh buồm của Dover vào năm 1305. Một chiếc chúng ta có thể nhận ra bánh lái ở mạn cong của thuyền, nhưng nó có thể là nằm ở bên mạn phải của thuyền. Cánh buồm rộng xấp xỉ 1100 ft vuông. Trên con tem bên phải bạn có thể thấy một bánh răng đã cải tiến, được tìm thấy năm 1975 ở Danzig. Chiếc bánh răng trên con tem Ba Lan ở đầu trang cũng có hình dáng tương tự, nó được thiết kế giống cánh buồm ở Stralsund từ năm 1329. Trong những năm tiếp theo, kích thước của tàu cũng được tăng lên. Vào năm 1227 sức chứa trung bình của một khoang có thể đạt đến 20 load hàng, nhưng vào năm 1300 thì nó đạt đến 40 load hàng. Vào năm 1358, là 60 load, và theo ghi chép thì vào năm 1400, sức chứa trung bình là 100 load hàng, tương đương với 200 tấn hàng hoá. Trên con tem phía bên trái bạn có thể thấy một chiếc tàu đơn cột buồm Hulk (Holk) mang con dấu của thành phố vùng Danzig vào khoảng năm 1400. So với kiểu dáng của người Hà Lan và những chiếc bánh răng trước đó, thuyền 3 cột buồm đã được phát triển hơn, nó cũng xuất hiện cùng một lúc và cũng được gọi là Hulk, về sau nó được gọi là phiên bản bánh răng mới. Vào giữa thế kỉ 15, những con tàu này có thêm những tấm lót ván nhẵn dùng trong các thuyền nhỏ, có tác dụng làm chúng chạy nhanh hơn nhiều lần. Đỉnh của cột buồm đã được thay đổi và được gọi là Mars, một chòi canh nhỏ dành cho các thuỷ thủ và có thể để được vũ khí. Cột buồm mũi và cột buồm chính được đặt để mang được cả trục căng buồm và cánh buồm, cột buồm nhỏ chỗ lái thì có một lá buồm hình tam giác giúp nó xoay mạnh sang hướng gió một cách dễ dàng. Những con tàu này có các kích thước như sau: dài 98 ft, rộng 26ft, sâu 10ft, sức chứa khoảng 100 load hàng, tương đương 200 tấn hàng hoá, cánh buồm rộng 2700 ft vuông. Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với sự phát triển của Hanseatic League ở Biển Bắc và Biển Baltic xuất phát từ thành phố của Liibeck, được mô tả trên con tem phía bên trái. Lịch trình ngoại thương xuất phát từ đây, đến Víby/ Gotland, đến Nowgorod, Bergen, Briigge, London và một vài khu vực quần đảo quan trọng khác. Trụ sở của hanseatic được đặt trên mỗi thành phố, vì vậy nó còn được gọi là Hansekontor, các trụ sở này quan trọng đến nỗi chúng có những cái tên riêng như Petershò ở Nowgorod, hay Deutsche Brucke ở Bergen, hoặc Stalhof ở London. Trên con tem phía bên phải hội buôn Hermann Hillebrandt Wedigh được miêu tả khá cụ thể (giống với bức tranh của Holbein). Ông ta là đại diện của Hanseatic League ở London Stalhof. Vào cuối thế kỉ 13, không một ai dám nhận thách thức trở thành chỉ huy Lubecks. Đây là nơi tổ chức các phiên họp của Hanseatic League, và những người đứng đầu phải đưa ra những đường lối hoạt động đối với tất cả các trụ sở chi nhánh khác. Hanseatic League buôn bán thóc lúa dư thừa từ các nước phương đông, buôn cá từ Bergen và Visby, vải vóc từ Brugge, buôn sáp ong, mật ong, long thú và hổ phách từ Nowgorod. Trên con tem của Na Uy, bạn có thể thấy khoang hàng Hulk với biểu tượng của loài cá tuyết sấy khô và ướp muối. Vào lúc đó, không có một công ty tàu biển nào. Một con tàu có vài người chủ, và quyền thuyền trưởng thì cũng chia đều. Việc mua bán thương mại diễn ra chung ở rất nhiều con tàu đã làm tăng nguy cơ bị phá sản và cướp bóc tàu thuyền. Vào thế kỉ 15, hơn 1000 con tàu với sức chứa ước tính khoảng 45000 load hàng, tương đương 90.000 tấn, đã dong buồm có treo cờ biểu tượng của Hanseatic League. Các chuyến vận chuyển thường hàng năm đạt tới hơn 200.000 tấn hàng. Hơn 300.000 thùng cá đã được vận chuyển từ Schonen mỗi năm. 1100 tàu đã rời Danzig và chở ngũ cốc đến Hà Lan và Bỉ. Số thủy thủ bình quân trên một con tàu có bánh răng lái là 15 đến 20 người, cùng với hàng hoá và một số nhân viên phục vụ khác. Trong suốt thời gian chiến tranh ở các vùng có cướp biển, ngẫu nhiên có một số lính bị mang theo, số lượng chính xác là bao nhiêu thì còn tuỳ thuộc vào kích thước và sức chứa của con tàu. Một tàu Hulks có thể mang được xấp xỉ 100 người. Trên con tem này, bạn có thể thấy những con tàu cùng với hàng hoá buôn bán ở cảng Danzig. Cổng xuất nhập hàng nổi tiếng Danziger có thể nhìn thấy ở phía sau, các khu cho tàu thuyền quá độ cũng được khai thác cùng thời điểm đó ở Hanseatic League. Các tàu có bánh lái không phải là tàu chiến. họ chỉ chở các thuỷ binh trong những căn phòng công sự nhỏ để tự bảo vệ. Tuy nhiên một số con tàu thì lại tự động chuyển đổi sang mục đích chiến đấu. Chúng được gọi là những con tàu hoà bình để dẹp loạn kẻ thù. Một biến thể khác được gọi là "outlieer", là những tàu nhỏ dùng để canh phòng ở các cửa sông. Còn một loại nữa là Orlogship, được hiểu chính xác là tàu chiến. Những con tàu này được trang bị các loại cung tên, nỏ, sung bắn đá, và máy lăng đá. Trong suốt thế kỉ 15, sự phát triển của sức mạnh quân sự đã mang "arkebusen" ( một loại súng trường tiền trạm), một loại súng nhỏ được gọi là "snakes" và súng thần công hạng nặng được gọi là Karonades. Về sau các loại súng thần công được gọi là Kartaunen, được bổ sung và đặt cố định ở giữa tàu. Trên con tem này, bạn có thể thấy một con tàu năm 1470 với thang cuốn để cuốn những tảng đá lên trên đỉnh công sự chiến.. Bạn có thể nhận ra lá cờ Hanseatic League màu trắng với những đường sọc đen. Tất cả các tàu có bánh lại đều mang cờ (được gọi là Fluger), biểu trưng cho màu sắc ở quê hương. Mặc dù là một liên đoàn thương nghiệp yên bình không có những tham vọng chính trị, Hanseatic League không bao giờ bỏ qua những cơ hội quyền lực để đạt được những mục đích của mình. Những mục tiêu tranh giành mới trên biển đã được hoạch định giống như những chuyến hành trình được hộ tống sẵn, phong toả các tuyến đường trên biển và đất liền. Sự phong toả đó đươc tiến hành bởi một đội tàu luôn đi gần nhau nhằm tạo sự bảo vệ tốt nhất. Sự phong toả trên biển và các lực lượng đổ bộ trên đất liền đã được người Đan Mạch và Na Uy trong Hanseatic League điều khiển. Vào thời điểm đó, các trận thuỷ chiến bao gồm 3 giai đoạn. Đầu tiên, một con tàu tiên phong sẽ cố gắng đạt tới vị trí hướng gió thuận lợi để dễ dàng điều khiển và ngăn giớ từ buồm của kẻ địch. Giai đoạn 2, kẻ tấn công sẽ cố gắng phá tan kẻ thù bằng cách phóng ra những mũi tên, nỏ bắn đá. Giai đoạn 3, thuyền tấn công sẽ cho thuỷ thủ nhảy sang tàu của kẻ địch và hai bên chiến đấu giáp lá cà. Vào thế kỉ 13 và 14, nạn cướp biển đã đe doạ những lịch trình vận chuyển của Hanseatic và gần như đẩy việc buôn bán trên biển vào bờ vực chấm dứt. Hanseatic League chống trả bằng cách thành lập các đội bảo vệ cực mạnh và mang tên những con tàu hoà bình. Để tăng thêm khó khăn, hầu hết nạn cướp biển được bảo trợ bởi một hoặc nhiều địa chủ quý tộc. Vào thời điểm đó, các cuộc xung đột bạo lực giữa các quốc gia, các thành phố và Hanseatic League trở nên phổ biến. Cướp biển được thuê mướn, chúng nhận được những con tàu truy lung và chống lại kẻ địch. Cướp biển có thể tìm kiếm nơi ẩn náu và bán của cướp được ở các hải cảng của người bảo trợ chúgn. Hanseatic League thậm chí còn dùng đến kế sách thuê chính những tên cướp biển. Bời vì chúng vận chuyển lương thực đến Stockholm nên những tên cướp biển được mệnh danh là Vitalienbruder (ông trùm lương thực). Sau này, chúng được gọi là Likedeeler (người phân phát công bằng). Vào cuối thế kỉ 14, quần đảo Gotland và Rugen trở thành nơi ẩn náu chính của cướp biển. Năm 1398, các thành phố của Hanseatic và tầng lớp các hiệp sĩ Teutonic đã tập hợp lại tạo thành một hạm đội gồm 84 con tàu và 4000 chiến binh. Hạm đội này đã tấn công những tên cướp biển dám quấy phá vùng Gotland. Chỉ có một số tên trốn thoát được và từ bỏ vùng biển Baltic mãi mãi. Trên con tem này, đã mô tả "Peter vùng Danzig". Con tàu này được xây dựng ở La Rochelle và gọi là "Pierre de La Rochelle", và được bán đến vùng Danzig năm 1461. Vào năm 1470, nó được trang bị lại phục vụ cho chiến tranh và nhận nhiệm vụ đến eo biển nước Anh. Sau một vài thất bại năm 1472, cuối cùng thì nó cũng bắt giữ một con tàu ở cửa sông Themse (dài 141ft, rộng 39 ft và có 17 khẩu súng). Những tên cướp biển nổi tiếng nhất và có tính truyền thuyết nhất là Goedeke Michels và Klaus Stoertebeker. Chúng bắt đầu sự nghiệp ở biển Baltic với trận đánh có cái tên là "bạn của Chúa và tất cả những kẻ thù của thế giới", chúng di chuyển trong lãnh hải phân chia giữa biển Bắc. Stoertebeker đã xâm chiếm xuống miền Đông Nam từ hòn đảo nhỏ tên Helgoland, ở phía bên phải của cửa sông Elbe và Weser. Michels thường lui tới các khu vực thuộc vùng Tây Nam trước lãnh địa Anh và Bỉ. Vào năm 1400, một đội tàu từ Hamburg đã giành chiến thắng trong trận thuỷ chiến chống lại đội tàu của Stoertebeker. Stoertebeker đã bị bắt giam và sau đó bị xử trảm ở Hamburg. Có một số câu chuyện khá chi tiết về nó vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Trên con tem phía bên trái, bạn có thể thấy Stoertebeker trên một chiếc huy hiệu. Còn trên con tem phía bên phải mô tả "Con bò đầy màu sắc của Flanders". Nó được điều khiển bởi Simon Van Utrecht và là một phần trong câu chuyện về hạm đội Hamburg. Mọi người cho rằng nó đã chở tới 140 tay súng và chiến binh thiện nghệ. Vào thế kỉ 16, Hanseatic League đã phải chịu một số thất bại khi chiến đấu chống lại người Thuỵ Điển và người Đan mạch. Sau khi sự kiện này xảy ra, một số nước Scandinavia trở nên độc lập hơn và không phụ thuộc vào Hanseatic League nữa. Người Hà Lan đã tự buôn bán trên biển Baltic. Nứơc Anh tự cách ly và vào năm 1598, nó đóng cửa hải cảng nổi tiếng Stalhof ở London. Cuộc chiến kéo dài 30 năm từ năm 1618 đến năm 1648 đã quyết định số phận của tất cả các công ty thương mại ở trung tâm Châu Âu. Vào năm 1669, ngày cuối cùng của Hanseatic League đã được tiến hành và chỉ có 6 thành phố tham dự. Phát hiện lớn nhất vào cuối thế kỉ 16 và đầu thế kỉ 17 đó là bắt đầu việc buôn bán mở rộng trên các đại dương. Các nhu cầu cá nhân của người dân trong các quốc gia và thành phố đã chi phối và tạo lập nên các nhịp cầu thương mại giữa các thành phố.. Trung tâm thương mại đã chuyển từ đất liền ra ngoài đại dương. Trên con tem phía bên trái đã mô tả "Đại bang của Lubeck". Vào khoảng năm 1565,1566, nó đã được xây dựng và trở thành con tàu chiến 4 cột buồm của Hanseatic League ở Lubeck. Tuy nhiên con tàu nàu không bao giờ ra trận và vào năm 1570 nó được sửa chữa lại và dùng vào mục đích phục vụ thương mại. Những thay đổi này cho thấy Hanseatic League không chỉ sử dụng tàu chiến có bánh răng. Chú thích: Trên cánh buồm Dover, bạn có thể nhìn thấy bánh lái ở mạn phải tàu (xem con tem Guyana phía trên). Có thể có điều này vì người thợ chạm khắc không nghĩ rằng các dấu vết đó lại là hình ảnh lưu trữ lại. Bánh lái chắc chắn là ở bên mạn phải của tàu. Trong tiếng Anh, từ "port" có nguồn gốc từ thói quen khi quay thuyền hơi khó khăn trong các bến. Bức tranh phía sau đã cho thấy các bánh răng của Hanseatic League được chế tạo ở Kiel. Đó là hình ảnh quá trình chế tạo một chiếc tàu vận hành bánh răng năm 1380, được tìm thấy ở Bremen năm 1962. |
4 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hienthuong vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
#6
|
|||
|
|||
"][
Siêu thuyền buồm (thuyền có tốc độ cao) Những chiếc thuyền hai buồm có dáng thiết kế gọn gàng được gọi là Siêu thuyền buồm Baltimore (xem con tem phía bên trái.) đã được dùng cho những mục đích cá nhân trong suốt giai đoạn chiến tranh 1812-14 giữa vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Với cột buồm thẳng và cao, gần giống như thuyền buồm và tàu chiến của Pháp, những chiếc thuyền này trở thành những chiếc thuyền tổ tiên của loại siêu thuyền buồm sau này. Trước đây, siêu thuyền buồm giống như những chiếc thuyền chở hàng, nhưng với tốc độ siêu nhanh chúng trở thành phương tiện lý tưởng để buôn lậu thuốc phiện và nô lệ. Vì vậy mà có những thuật ngữ như “Siêu thuyền buôn thuốc phiện” hoặc “Siêu thuyền buôn nô lệ”. Chiếc siêu thuyền buồm đầu tiên, có tên là Cầu vồng, được thiết kế bởi một thợ tàu tên là John Willis Griffiths ở New York . Ông ta đã thử nghiệm ý tưởng của mình với mẫu thiết kế dùng với xe tăng lội nước. Vào giai đoạn đó, những chiếc thuyền buồm lớn có phần đuôi thuyền thon mảnh, phần mũi thuyền hình tròn, như vậy thuyền sẽ dễ dàng được những con sóng nâng lên. Griffiths đã đảo ngược xu hướng này bằng thiết kế với phần mui thuyền thon mảnh, còn phần đuôi thuyền mở rộng hơn. Đặc biệt cột buồm cao hơn bình thường rất nhiều. Vào năm 1845 con thuyền Cầu Vồng đã thực hiện chuyến hành trình đầu tiên đến Trung Quốc để vận chuyển trà (con tem bên phải) Cụm từ “Siêu thuyền buồm” xuất phát từ một động từ là “to clip” (cắt mạnh, đánh mạnh), và thuật ngữ “to go at a good clip” (đưa ra một cú đấm mạnh). Tiêu biểu là thân thuyền có hình dáng thon dài và có phần lõm ở giữa, vì vậy mà được gọi là thân dạng siêu thuyền. Thuyền ngập sâu trong nước với vỏ thuyền dài, thon mảnh và rẽ nước thành dòng. Đáy thuyền thì có dạng phẳng dẹt. Tỉ lệ chiều dài và chiều rộng của thuyền là khoảng 5:1 đến 6:1, sau này, với những thân thuyền khỏe chắc hơn thì tỉ lệ có thể đạt tới 8:1. Với những tỉ lệ lí tưởng này, những con thuyền chế tạo sau được thường được gọi là Thuyền siêu đặc biệt Hầu hết siêu thuyền buồm đều là loại thuyền có đầy đủ bộ 3 cột buồm. Chiều cao của những cột buồm này cho phép căng cánh buồm lên cao đến tận đỉnh. Chiều cao cột buồm xấp xỉ ¾ chiều dài thân thuyền. Chúng có thêm những cánh buồm đón gió và buồm trong khung gỗ được gắn cố định trên các trụ kéo thẳng ra. Siêu thuyền buồm cuối cùng được xây dựng với 7 cánh buồm vuông trên một cột chính, và trên mỗi đỉnh cột buồm lại có một lá buồm khác. Con tem này tượng trưng cho “Đám mây bay”, được thiết kế và xây dựng bởi một nhà đóng tàu nổi tiếng là Donald McKay vào năm 1851. Con thuyền có chiều dài 230 ft, tầm sóng là 4lft, sức kéo là 2lft. Tất cả các siêu thuyền buồm đều chạy với tốc độ trung bình là 14 đến 15 hải lí, và tốc độ cao nhất có thể đạt là 20 hải lí. Trong giai đoạn đó, tàu chạy bằng hơi nước đầu tiên cũng xuất hiện nhưng sức chứa than phục vụ cho quá trình đốt cho mỗi chuyến hành trình là không đủ, vì vậy mà người ta vẫn cần đến những chiếc thuyền buồm với tốc độ nhanh. 2 siêu thuyền buồm đầu tiên được chế tạo nhằm tìm kiếm lợi nhuận từ việc buôn bán chè giữa Trung Quốc và New York . Chủ thuyền đã kiếm được khá nhiều lợi nhuận khi những con thuyền nhanh nhất trở về New York với những vụ thu hoạch đầu tiên trong năm. Vào năm 1849, Phù Thủy Biển (xem tem này) với thuyền trưởng của nó đã lập một kỉ lục mới khi đi từ Hongkong đến New York chỉ trong 74 ngày. Còn những con thuyền khác thì phải mất 150 đến 180 ngày để hoàn thành chuyến hành trình đó. Vào năm 1847, 13 chiếc thuyền đã được đưa vào cảng của thành phố San Francisco , đem theo gần 1000 người dân. 1 năm sau, vàng được phát hiện ở đó. Vào năm 1849, 775 con thuyền khác cũng đã cập bến San Francisco . Nhưng chỉ có duy nhất một siêu thuyền buồm trong số đó tên là Memnon. Nó đã lập một kỉ lục với chuyến đi 122 ngày từ New York đến San Francisco . Vào năm 1849, San Francisco đã thu hút đến 20000 người. Chi phí giá cả cho tất cả mọi loại hàng hóa đã bị nâng cao lên gấp 10 lần. Một con thuyền có thể thực hiện 3 chuyến đi một năm thay vì 2 chuyến thì được coi như một mỏ vàng. Ngay lập tức, những chiếc siêu thuyền buồm được tận dụng để thực hiện những chuyến đi mua bán chè đến Trung Quốc và vận chuyển hàng đến Cape Horn . Vào năm 1850, một xưởng đóng tàu ở sông Đông ở New york đã thuê 10000 thợ để đóng một chiếc siêu thuyền buồm mạnh nhất. Tất cả mọi người trong nước đều sục sôi với con sốt vàng. Và chiếc siêu thuyền buồm cũng đến lúc hoàn tất. Chiếc Samuel Russel chỉ cần 109 ngày, còn Sea Witch cần 97 ngày, Surprise chỉ mất 96 ngày để thực hiện chuyến đi đến New York qua cầu Cổng Vàng. Vào năm 1851, Flying Cloud đã lập một kỉ lục mới trên chuyến đi từ New york đến San Francisco mất 89 ngày và 21 giờ, lần lượt qua các bến neo đậu trong chuyến hành trình liên tục của mình. Trong suốt chuyến đi, 3 cột trụ buồm đã bị gãy trong một trận bãolớn, và cánh buồm cùng với dây thừng cũng bị xé tan tác. Nhưng tất cả thủy thủ trên tàu đã khắc phục thiệt hại chỉ trong 2 ngày và nó đã hoàn thành chuyến đi nhanh hơn 1 tuần so với kỉ lục trước đó. 3 năm sau, vào năm 1854, Flying Cloud thậm chí còn xuất sắc hơn những lần trước, nó đã thiết lập một kỉ tuyệt đối với chuyến đi dài 89 ngày và 8 giờ. Trong khoảng thời gian năm 1852-53, 3 siêu thuyền buồm là Flying Fish, John Gilpin, và Wild Pigen đã hoàn thành cuộc đua nổi tiếng từ New York – San Francisco, và John Gilpin đã giành chiến thắng với 92 ngày. Ở vương quốc Anh, việc chế tạo siêu thuyền buồm bắt đầu vào khoảng năm 1851. Thuyền của nước Anh thì nhỏ hơn so với thuyền của Hoa Kỳ. Chúng được thiết kế cho những chuyến đi đến Trung Quốc, đặc biệt là phục vụ ngành thương nghiệp mua bán chè và thuốc phiện. Từ cuối thế kỉ 18, ngướic Anh vận chuyển thuốc phiện từ Ấn Độ đến Trung Quốc, mặc dù Trung Quốc cấm buôn bán loại hàng hóa này. Lợi nhuận khổng lồ đã được tích lũy và làm cho những cuộc xung đột ngày càng tăng cao. Vào năm 1840-42, cuộc chiến thuốc phiện nổ ra giữa Trung Quốc và Anh, kết quả là Trung Quốc phải đầu hàng và phải nhường đi Hồng Kông. Ngày nay, Trung Quốc lại bị nạn thuốc phiện hoành hành. Các tàu buôn của nước Mỹ và Pháp cũng tham gia vào ngành thương mại độc hại này. Con tem bên trái bạn có thể thấy Siêu thuyền buồm Trung Quốc và siêu thuyền buồm trà. Rất nhiều các cuộc đua tranh nổi tiếng đã diễn ra trong suốt 30 năm giữa các loại đại siêu thuyền buồm. nhưng chỉ có một điều tạo nên ảnh hưởng lớn trên thế giới là “great tea race năm 1866. 16 siêu thuyền buồm đã neo đậu tại Trung Quốc, chờ cho mùa thu hoạch trà đầu tiên đến. Tất cả đều muốn giành được phần thưởng đáng giá đến mức khó tin, là thêm 10 shilling trên 1 tấn. Trong số 16 con thuyền, 5 chiếc được đánh giá cao là Teaping, Fiery Cross, Taitsing, Serica và Ariel. Sau vụ thu hoạch, hàng hoá được chất lên tàu, 5 con thuyền này dường như “bay” qua những cơn bão của miền đông nam để đến mũi Hảo Vọng. Con thuyền và các thủy thủ đã hoạt động hết công suất. Những con sóng lớn gần như quét sạch mọi thứ trên boong tàu, và 2 cột trụ của Ariel bị phá gãy. Sau đó, con tàu này hướng lên phía bắc, dọc theo bờ biển châu Phi trong cả 1 tháng. Sau 98 ngày, tàu Teaping (tem bên trái) và tàu Ariel (tem bên phải) đã cùng đạt đến tầm nhìn của nhau, trên kênh đào nước Anh. Trên cả hai con thuyền những miếng vải bạt cuối cùng cũng đã hòan thiện. Lần lượt từng con thuyền chạy về phía cửa sông Thames . Ariel đã đến vùng neo tàu trước, dẫn đầu khoảng 8 phút nhưng lại không duy trì được lợi thế do thủy triều lên chậm. Ngay sau đó, Teaping đã tiến đến ngang bằng và cuối cùng giành chiến thắng.. Tuy nhiên cuộc chơi công bằng và giải thưởng vẫn được chia đều cho cả hai. Serica đã đến London trên cùng đợt thủy triều đó nhưng chậm hơn 1 tiếng rưỡi. Hai ngày sau đó, Fiery Cross và Taitsing cũng cập bến London . Vào năm 1851, vàng được tìm thấy ở Australia , và đám đông sốt vàng lại làm chuyến di cư đến đó. Những siêu thuyền buồm đã đi vượt biên giới, vòng qua mũi Hảo Vọng. Trong chuyến đi trở về nhà, họ mang theo đầy len, bơi vượt Thái bình dương, vòng qua Cape Horn trên đường đến Châu Âu. Vì những cơn gió xuất phát chủ yếu từ phía sau., nên đây là một sự thuận lợi lớn cho những chiếc buồm lớn căng trên các siêu thuyền. Một chiếc siêu thuyền buồm điển hình của nước Anh là Orient (tem bên phải), nó được xây dựng năm 1853, nhằm phục vụ cho ngành ngoại thương của Australia . Con thuyền Lightning (tem bên trái) được Donald Mckay vào năm 1854 ở Boston , đóng cho chủ tàu là James baines và Co. of Liverpool. Chiếc thuyền này cùng với chiếc James Baines đã trở thành những siêu thuyền buồm nhanh nhất trên các chuyến đi buôn của người Úc. Cả hai đã cùng lập nên những kỉ lục, từ Melbourne đến Liverpool chỉ trong 63 ngày. Chiếc Lightning được tôn sung là chiếc siêu thuyền buồm chạy nhanh nhất mà đã từng được chế tạo. Vào thời tiết có bão, nó vẫn đi được với tốc độ 18 đến 21 hải lí. Cột buồm chính của nó cao 164 ft, cánh buồm dài nhất là 95 ft, tổng cộng chiều dài của thuyền là 279 ft, rầm dài 42 ft, draft (em không biết nghĩa của từ này) là 23 ft, khối lượng tịnh của nó là 2084 tấn. Sau khi khởi công kênh đào Suez vào năm 1869, những chuyến đi đến Trung Quốc được tiến hành bởi các thủy thủ đoàn, tuy nhiên những chiếc siêu thuyền buồm vẫn tiếp tục phục vụ những chuyến dài hơn đến nước Úc. Con thuyền Thermopylae của Anh (tem bên trái) được hạ thủy vào năm 1868. Chủ của nó, G.. Thompson, khẳng định rằng đó là con thuyền buồm nhanh nhất trên thế giới. Nó chỉ cần 91 ngày để thực hiện chuyến đi đầu tiên từ Trung Quốc đến London , là một kỉ lục thật sự ấn tượng.. Một con gà trống bằng vàng được gắn trên đỉnh của cột buồm chính như là biểu tượng cho vai trò dẫn đường giữa những chiếc siêu thuyền buồm khác của Anh. Thuyền trưởng Jock Willis, một người Scôtlen, đã rất khó chịu với sự khoe khoang đó, và 1 năm sau ông chế tạo con tàu Cutty Sark, một con tàu có mọi kích thước lí tưởng, thách thức sự nguy nga của Thermopylae. Các số liệu của Cutty Sark (tính đến nay) là 272 ft chiều dài tổng cộng, 213 ft chiều dài ở dưới nước, 36 ft rầm, 20 ft draft, tổng trọng lượng là 2133 tấn. Với tất cả các cánh buồm thì diện tích nó lên đến 32,670 ft vuông. Trong hai chuyến hành trình đầu tiên đến Far East, Cutty Sark đã không vượt qua được kỉ lục thời gian của Thermopylae . Nhưng trong chuyến đi thứ 3, cả hai con thuyền đã gặp nhau trên đường. Chúng rời Thượng Hải cùng ngày, nhưng Cutty Sark đã bị mất bánh lái trong một cơn bão lớn ở Ấn Độ dương. Nó mất 4 ngày để chế tạo và thay thế bánh lái mới. Con tàu về London chậm hơn 1 tuần so với Thermopylae . Nhưng dù sao thì thủy thủ và con tàu cũng đã lập một chiến công đáng ghi nhớ trong lịch sử hàng hải: với một chiếc bánh lái không hoàn chỉnh được thay thế, mà nó vẫn vượt qua hơn 7000 hải lí chỉ trong 60 ngày. Những chuyến đi biển sau đó không thể nào đạt thành công để so sánh được. 8 năm sau, ngành thương nghiệp Trung Quốc đã có đến 5 năm là có những chuyến hàng khác nhau trên những lịch trình khác nhau. Vào năm 1880, cột buồm và diện tích buồm của nó đã bị cắt giảm xuống. Sau đó, vào năm 1885, thuyền trưởng Richard Woodgett đã đưa ra một yêu cầu, đó là bổ sung thêm cánh buồm và dây thừng mới, và chiếc siêu thuyền buồm bây giờ đã có thể gia nhập vào việc buôn bán giữa UK và Úc, nó đã gặp lại đối thủ cũ là Thermopylae. Dưới sự điều khiển của người chủ tài ba, Cutty Sark đã trở thành siêu thuyền buồm nhanh nhất và thành công nhất trong giai đoạn đó. Cũng trong năm đó, thời đại của Thermopylae đã bị phá vỡ chỉ trong 7 ngày. Sau đó, Cutty Sark đã luôn chiến thắng trong những cuộc đua với đối thủ cũ. Thậm chí đến những thủy thủ cũng không muốn rời xa con thuyền. Vào năm 1889, nó đã chạy nhanh hơn cả con tàu chạy bằng hơi nước Britannia với tốc độ là 17 hải lí. Năm 1895 nó được bán cho một ông chủ người Thổ Nhĩ Kỳ, và Cutty Sark tiếp tục vận chuyển hàng hóa cho đến năm 1922. Sau đó, nó quay trở lại nước Anh và phục vụ một thời gian trong việc vận chuyển trang thiết bị trường học. Năm 1954, nó được đặt một chế độ sửa chữa đặc biệt tại Greenwich . Thật tuyệt vời khi nó được khôi phục lại toàn bộ như 130 năm trước, Cutty Sark vẫn được đặt trong bảo tàng về tàu biển như là biểu tượng của một kỉ nguyên vĩ đại. Bất kì người nào đi đến London đều nên đến chiêm ngưỡng nó. http://www.temviet.com/forums/showthread.php?t=809 *** Có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc chiếc thuyền buồm nào giữ kỉ lục về chuyến đi dài ngày nhất. Giải vô địch về biển được tiến hành, và nó chia ra mỗi chặng dài 465 hải lí, và tốc độ trung bình là 19.4 hải lí. Lightning đi được 436 nm, tốc độ trung bình là 18.2 hải lí. Vào năm 1900, Tlyiing-P-Liner Potói đạt 540nm, tốc độ trung bình là 22.5 hải lí. Tuy nhiên, P-Liners, con thuyền buồm loại khác, lại mở ra một chương đặc biệt về lịch sử ngành hàng hải. Hãy đọc trang Preussen và bạn sẽ biết tại sao Bài được hienthuong sửa đổi lần cuối vào ngày 15-11-2008, lúc 08:22 |
4 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hienthuong vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
#7
|
|||
|
|||
Thuyền buồm “Preussen”
PREUSSEN, Nữ Hoàng Biển Cả Chiếc thuyền buồm lớn nhất của Đức và cũng là lớn nhất trên thế giới vào thời điểm đó. Được chế tạo năm 1902 tại một xưởng đóng tàu của Joh.. C. Tecklenborg ở Geestemuende Loại thuyền 5 cột buồm chính , 48 lá buồm và rộng khoảng 5560 mét vuông. Nó dài 132 m, rộng 16.4 m, cột buồm cao nhất cao 68m. Tổng tải trọng là 11150 tấn, chứa được 8000 tấn hàng hóa, thủy thủ là 45 người. Tốc độ cao nhất là 17 hải lí, tốc độ trung bình đạt loại tốt nhất là 15.3 hải lí Tốc độ bình thường là 8 hải lí, nhanh hơn cả loại được trang bị dụng cụ đầy đủ nhất thời đó. Nó có boong tàu được kéo bằng dây tời bởi động cơ hơi nước, nhưng không có một động cơ hỗ trợ nào. Preussen thuộc sở hữu của một công ty tàu biển Đức là Ferdinand B. laeisz, ở Hamburg . Tất cả những con tàu của Laeisz đều bắt đầu bằng chữ P, vì vậy chúng được gọi là Flying P-liner! Vì tất cả những con tàu của Laeisz đều bận rộn với những chuyến buôn salpetre đến Chilê, trong chuyến đi nhanh nhất của mình, Preussen chỉ cần có 57 ngày từ kênh đào nước Anh đến Iquique. Những con tàu nổi tiếng khác của Flying-P-Liner là Potosi , Passat, Pamir, Pommern, Priwall, Peking, Padua , Ponape… Chiếc Preussen chỉ hoạt động có 8 năm. Vào tháng 11 năm 1910, Preussen đã bị va chạm với tàu chạy bằng hơi nước của Anh, . Con tàu chạy bằng hơi nước này đã cố gắng vượt qua mặt tàu Preussen nhưng vì tính toán sai tốc độ nên đuôi của nó bị tàu Preussen phá nát Sau vụ va chạm, Preussen đã cố gắng về cảng Dover với sự giúp đỡ của một con tàu khác. Nhưng một lần nữa dây chằng bị đứt và nó lao vào vách đá nhô ra ở bờ của Dover . Một lần nữa 12 con tàu kéo đã cố gắng móc nối lại để kéo Preussen từ vụng nước sâu, nhưng không thành . Và Preussen cuối cùng bị họa bất dung thân khi một cơn bão lớn , xô thuyền vào vách đá tan nát. |
5 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn hienthuong vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
*VietStamp* (01-01-2009), chimyen (01-01-2009), hat_de (22-11-2008), manh thuong (02-01-2009), zodiac (08-01-2009) |
#8
|
||||
|
||||
Tớ cảm ơn bài viết về thuyền buồm rất hay của bạn Hienthuong nhé !
Mong bạn viết nhiều bài hay hơn nữa |
Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn chimyen vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
hat_de (02-01-2009) |
#9
|
||||
|
||||
"Thuyền ta chầm chậm vào Ba-bể Núi dựng cheo leo, hồ lặng im Lá rừng với gió ngâm se sẽ Họa tiếng lòng ta với tiếng chim Thuyền ta lướt nhẹ trên Ba-bể Trên cả mây trời trên núi xanh Mây trắng bồng bềnh trôi lặng lẽ Mái chèo khua bóng núi rung rinh. Thuyền ta vòng mãi trên Ba-bể Cây chạy theo thuyền thuyền vẫy đi Phải ta vượt khỏi nơi trần thế Tới giữa mông lung, giữa diệu kỳ..." Nhắc đến Hồ Ba Bể du khách đều nghĩ ngay đến thuyền độc mộc, thuyền độc mộc gắn liền với cuộc sống của người dân vùng hồ Ba Bể, thuyền rộng khoảng 30cm, dài khoảng 2,2m đến 2,5m (làm bằng gỗ gì CY chưa biết ) , thuyền chỉ một người lái và chở một người, rất lãng mạn . thuyền độc mộc lấy thăng bằng không dễ, phải tập , nếu không quen, lên thuyền sẽ chòng chành, chòng chành và thuyền sẽ rất dễ dàng lật úp Vào mùng 5 tết âm lịch hàng năm , lễ hội " Lồng Tồng" ở Hồ Ba Bể có cuộc thi thuyền độc mộc , dưới các tay chèo của nam thanh nữ tú tuyền Độc Mộc lao đi vun vút như những chiếc thoi đưa, kéo theo đằng sau là những làn nước trắng và trên bờ là tiếng reo hò cổ vũ .... |
5 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn chimyen vì đã gửi Bài viết hữu ích này: | ||
*VietStamp* (03-01-2009), hat_de (03-01-2009), laklih (06-03-2011), manh thuong (03-01-2009), zodiac (08-01-2009) |
#10
|
||||
|
||||
Quê Hương
Tế Hanh "Chim bay dọc bể đem tin cá" Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới: Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông. Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng, Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá . Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang. Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió ... Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ Khắp dân làng tấp nập đón ghe về . "Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe", Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng, Cả thân hình nồng thở vị xa xăm; Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ . Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi, Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá! |
Công Cụ | |
Hiển Thị Bài | |
|
|
Những Đề tài tương tự | ||||
Ðề Tài | Người Tạo Đề Tài | Trả Lời | Bài Mới Nhất | |
Vì sao chân dung trên đồng xu là hình bán diện còn trên tiền giấy là hình trực diện? | *VietStamp* | Tiền Xu | 0 | 08-12-2019 00:45 |
Gagarin trên tem Việt Nam trên tem Hungary | Poetry | Việt Nam trên tem Thế giới | 0 | 21-04-2011 12:35 |
Năm 1955 Hungary đã tiên phong phát hành tem nhôm - tem in trên kim loại đầu tiên trên thế giới | Poetry | Chất liệu đặc biệt khác | 0 | 11-03-2011 00:46 |