Quay lại   Diễn đàn/Forum VIET STAMP (VSF) > GIẢI TRÍ - THÔNG TIN TỔNG HỢP > Lang thang lượm lặt > Văn hóa - Giáo dục - Tri thức

Trả lời
 
Công Cụ Hiển Thị Bài
  #1  
Cũ 26-08-2010, 21:05
asahi's Avatar
asahi asahi vẫn chưa có mặt trong diễn đàn
 
Ngày tham gia: 17-10-2008
Bài Viết : 1,922
Cảm ơn: 5,782
Đã được cảm ơn 7,974 lần trong 1,497 Bài
Mặc định Tên những nàng con gái Huế...

Tên những nàng con gái Huế một thuở nào! Đề tài này tôi chắc không thiếu gì người hồi hộp nôn nóng muốn coi vì nó đầy chất thơ mộng, khêu gợi lại một thuở hoa niên.

Vừa rồi, tôi lại có cơ duyên biết một chuyện vui ngày xưa về tên của hai bậc phụ nữ thuộc lớp trưởng thượng mà tôi mạn phép kể ra đây: đó là hai cụ bà Công tằng Tôn nữ Tuyết Lê (phu nhân của cố G/s y khoa Phạm biểu Tâm) và C.T.T.N Anh Lạc ( thân mẫu của B/s Lê đình Thương); thuở con gái, hai cụ thường hay đi học và đi chơi chung không rời nhau một bước khiến nhiều chàng trai - nay đã thành những cụ ông đã ăn thượng thọ bát tuần từ khuya rồi! - không dám theo đuổi sát tán tỉnh mà chỉ bóng gió đứng xa xa ngâm bài thơ tựa đề là “ Le Lac” ( Lê Lạc!) của thi sĩ lãng mạn Lamartine của Pháp!

Nói theo tiêu chuẩn khảo cứu, chuyên đề nghiên cứu về” Tên những nàng con gái xứ Huế” chính là một đề tài văn hóa lớn, đòi hỏi tối thiểu một sự thống kê, điều tra, khảo sát, so sánh đầy nghiêm túc và khoa học hẳn hoi. Chao ôi là bắt bộn thứ phải làm!

Trong khuôn khổ một bài bút khảo đầy tính chất tài tử này, tôi chỉ xin dựa trên tên những vi phụ nữ đã từng ở Huế mà tôi đã nghe, hay quen biết xa gần hay góp nhặt lang bang từ những tuyển tập hay đặc san về xứ Huế .Tôi không dám nói họ cĩ gốc Huế chay” mà chỉ nói là những vị “phụ nữ từng ở Huế “ một thời gian đủ để làm “dân Huế” có “Huế tính”

Một đặc thù mà tôi để ý nhất là khuynh hướng đặt tên cho con gái đa số dùng tên đôi, tên kép ở Huế phải chăng đã nhiều hơn các nơi khác ở Việt nam? Ví dụ điển hình cụ thể là lấy hình chụp của các bà học sinh lớp đệ nhất niên Đồng Khánh 1936 – 1937 đăng trong tập san Tiếng Sông Hương 1988 của anh luật sư Lê chí Thảo thì có tổng cọng 30 người (gồm bà giáo Rérat và 29 nữ học sinh) thì tôi chọn ra được 16 tên kép nghĩa là 55% đứt đuôi nòng nọc rồi như: Thu Cúc, Đào Nguyên, Vân Huyền, Xuân Diễn, Túy Nhạn, Tố Tâm, Phương Lan, Diệm Nga, Thoại Ba, Cẩm Lai, Kim Phụng, Thánh Tín, Tâm Thành, Diệm Song, Phú Xuân, Phương Thảo; kỳ dư là 13 tên chiếc một chữ như Tùng, Hựu, Đỏ, Cam, Hy, Sung, Oai, Phú, Tảng, Ngà, Du, Hường, Trai. Một ví dụ khác dựa vào Tuyển Tập nhóm Phượng vỹ “Kỷ niệm 80 năm trường Đồng Khánh”, trên hình ảnh của 11 vị Hiệu trưởng của trường này từ 1945 - 1975, tôi thấy 6 vị có tên đôi là Đào T. Xuân Yến, Đặng Tống Tịnh Nhơn, Tôn nữ Thanh Cầm, Thân thị Giáng Châu, Lê thị Tường Loan, Phan thị Bích Đào, nghĩa là cũng 55% chớ bộ dỡn sao. Còn trong 52 hình ảnh của những vị nữ giáo sư Đồng khánh trong cùng một thời gian, tôi điểm ra được 40 vị sau có tên đôi: Diệu Liễu, Hoa Diên, Nhân Đức, Giáng Châu, Hỷ Khương, Như Kha, Từ Nguyên, Thanh Tâm, Đạp Thanh, Kim Chi, Quỳnh Diêu, Khánh Tịnh, Như Lê, Vân Trà, Ngọc Thạch, Kim Anh, Mỹ Trang, A Trang, Phạm thị Hoàng Oanh, Nguyễn thị Hoàng Oanh, Quế Hương, Mộng Hà, Thu Cúc, Ngọc Khuê, Bách Diệp, Tiểu Bích, Như Quý, Thúy Nga, Ngọc Mỹ, Phương Chi, Tuyết Mai, Bạch Tuyết, Tuyết Anh, Thanh Thu, Quỳnh Chi, P.N. Đông Hải, Mộng Hoàn, Marybeth Thanh Mai, Thanh Ngọc, Chi Điền, Bạch Hạc. 40/ 52 là tròm trèm 77%, thật là một vườn hoa của những mỹ danh đôi.

Một đặc thù khác nữa là tên đôi con gái Huế đặt ít khi trùng hợp với những tên đôi thông dụng quen nghe ở những nơi ngoài Bắc hay trong Nam, ví dụ trong bài Vùng Kỷ niệm của bà Hạnh Nhơn trong tập san Quốc học & Đồng Khánh Nam California 1999, tôi nhặt ra những tên: Nhân Lý, Kiều Miên, Lan Huê, Diên Hy, Tiên Nhạn, Như Miên, Bích Sen, Việt Thường; trong bài Nhớ hoài ngàn năm của Công tằng Tôn nữ Tri Túc, tôi cũng lượm ra hai tên ít nghe là Phạm thị Thứ Vọng, Trần thị Hà Long, Tôn nữ Cẩm Bàn. Riêng cá nhân tôi, thử vận dụng trí nhớ, tôi cũng moi ra bộn bề biết bao là những cái tên đôi đặc biệt, chẳng hạn như Mộng Thu, Đạm Phương, Nhân đức, Tuyết Lê, Anh Lạc, Mộng Nhiên, Túy Thiện, Thanh Túy, Thanh Lô, Thanh Hoài, Hồng Vinh, Trà Mi, Diệm Mi, Nga Mi, Dã Thảo, Miên Hoa, Như Ngộ, Diệu Hồi, Diệu Phước, Diệu Sâm, Diệu Hạnh, Diệu Điền, Diệu Cầm, Kim Soa, Thu Sương, Thiều Anh, Lạc Nhân, Hồng Tuyến, Dạ Khê, Lai Hồng, Bạch Trĩ, Tâm Thường, Khánh Trợ, Phùng Mai, Bội Lan, Bội Ngọc, TN Thượng Khanh ... Ít khi trong Nam ngoài Bắc, có những tên tương tự , đúng không nà, bà con mình hỉ?



Trước hết, nói chung về cái tên con gái đàn bà Việt nam, thì đã kể từ đầu thế kỷ này, ta đã giảm dần tục trọng nam khinh nữ không còn như sử Sách xưa chép về những danh nhân chỉ nói mẹ là người thuộc họ Bùi (Bùi thị), hay vợ là người thuộc họ Nguyễn (Nguyễn thị), kê họ ra mà không bao giờ nói rõ tên. Đã qua lâu rồi cái thời mà trên giấy tờ hay văn kiện, phái nữ bị gọi xách mé chung là “ y thị”, do đó phải chăng hiện nay cái chữ “ thị” có khuynh hướng bị cắt đi như là một tàn tích cổ hủ vậy vì nó vô tình bị đàm tiếu là “thị mẹt”! Pháiï nữ Việt Nam bắt đầu có tính cách pháp nhân trong xã hội giống phái nam ngày xưa có tên ghi vào sổ đinh để thi hành nghĩa vụ với làng nước. Tôi nghĩ trước đây ở Huế cũng giống như các nơi khác, khi con gái còn bé mặc quần xẻ đũng vì còn đái mế, trong gia đình, họ vẫn có thể mang những tên tục, xấu hái như hĩm, hến, gái, cũn, lọ, vá, tẹt, tôm, tép... của lớp người bình dân quê mùa hay những tên thông tục nôm na thân mật dễ thương “gọi chơi “ở nhà: ví dụ theo thứ tự sanh ra thì Chút chị, Chút em, Chút xí; hoặc theo nghề nghiệp gia truyền như tấm, cám, hẻo, the, lụa, lượt, là...( tên hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhì vì sanh ở làng chuyên nghề tằm tơ quen gọi “kén chắc, kén nhì”) ; hoặc giả đặt tên dính liền với một kỷ niệm nào đó ( ví dụ như tên “ Út chòi” mà một vị hưu quan đặt cho con gái út mà vợ ông mắc rặn đẻ khi ông vừa ăn một ván bài chòi ngon lành vào ngày Tết). Các vua nhà Nguyễn khi còn bé cũng có tên gọi chơ i như Mệ Tríu (Dục Đức), Mệ Mến (Hiệp Hòa), MệVững( Bảo Đại), và bà Từ cung húy là Hoàng thị Cúc nhưng tên tục là Khế hồi nhỏ ở Mỹ lợi nên sau này trong Nội gọi cữ trái khế là“trái khến”.Nhưng thông thường, khi mà các con gái đến tuổi đi học, cha mẹ ở tỉnh thành cũng thường đặt cho những tên nếu không hay ho thì ít ra cũng nghe được, tùy theo trình độ văn hóa gia đình. Có nhiều lối đặt tên ví dụ như có vần miệng hay tiếp ý nghĩa với tên cha mẹ hay anh chị em như mẹ tên Lê, con có thể là Đào, Lựu, hay Lý; chị Bưởi thì em Bòng.


Hoặc là đặt tên theo bộ sậu của các anh chị em theo thứ tự năm sanh với tên 12 con giáp, hoặc theo những điều chúc phúc Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh; hay theo tên thảo mộc quí như Tùng, Bách, Trúc, Mai, Quế, Hòe, Cúc, Liên; các tên chim như Phượng, Yến Sào, Nhạn, Thước hay tên các thứ quí kim, bảo ngọc như Kim, Ngân, Ngọc, Quỳnh, Dao, Bích..

Một điều tôi xin thưa rõ ràng là tôi nghĩ mọi người đều đồng ý rằng không nhất thiết chỉ có tên đôi, tên kép mới có ý nghĩa và đẹp, mà những cái tên đơn cũng ý nghĩa và đẹp không kém, ngoài ra chúng lại mang một ý nghĩa gọn gàng, tiêu biểu dứt khoát, khẳng định nữa, vì cũng có một số người cho rằng những tên đôi dài lê thê , chung qui là vấn đề sở thích.

Tôi thiết nghĩ cũng nhiều người muốn đặt tên con đểù chuyên chở một ý nghĩa cao đẹp, tao nhã nhưng lại thận trọng, khiêm tốn và dè dặt sợ rằng con mình không đủ tư cách đáp lại điều mơ ước của mình khiến thiên hạ đàm tiếu. Hoặc giả họ cũng nơm nớp kiêng cữ những cái tên “hoa nguyệt” hoặc những tên quá diễm tuyệt, sắc sảo, hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh sợ rằng nó vận vào số mệnh “hồng nhan đa truân”. Đương nhiên, cũng có người ít học mới giàu nổi nhưng học làm sang không cần hiểu ý nghĩa thâm thúy của chữ nghĩa mà chỉ cốt ï kiếm cái cầu kỳ về âm thanh du dương hài hòa của những cái tên hay đẹp nhưng rỗng tuếch, nghĩ cũng thật thương hại cho cái thói rởm trong đời.

Chọn những tên đơn một chữ đã khó thay, huống hồ chi chọn những tên kép, tên đôi. Ngoài Bắc trong Nam, - nhất là cái xứ Bắc hà ngàn năm văn vật – nói nào ngay cũng không thiếu gì phụ nữ mang tên đôi tên kép mỹ miều, ý nghĩa, dựa vào điển tích Nho học sâu xa, nhưng tôi chỉ xin nói đến những tên nghe được ở Thừa thiên – Huế thôi.

Trong bút khảo này, tôi chỉ nêu ra những tên con gái Huế theo giấy tờ khai sinh chứ không nói đến những tên, hay bút hiệu, bút danh mà vài cô, bà tự chọn về sau khi ra đời, lúc bấy giờ thì họ tha hồ, tự do hơn, không những tên hai chữ mà còn ba bốn chữ, để nói cái sở nguyện của bản thân. Khi còn nhỏ đi học, đặt tên ba bốn chữ thường rườm rà, gọi điểm danh không gọn mà viết ra còn choáng cột, nên rất dị òm, khiến bạn dễ chòng ghẹo.

Muốn khảo sát, nghiên cứu về lối đặt tên, tôi nghĩ ta không những thống kê phải theo thứ tự vần A, B,C, theo bộ loại về ý nghĩa mà còn phải điều tra về gia đình, gia cảnh, gia phong của những tên liên hệ. Ví dụ như ta thấy vài cung cách hay khuynh hướng đặt tên sau: Chữ Diệu thường là của giòng họ Nguyễn-khoa, chữ Như của giòng Hà-thúc ở La chữ, chữ Diệm của giòng họ Lê văn ở Kim long, chữ Hồng của gia đình họ Võ ở An ninh thượng, chữ Ngọc trong gia đình Lê khắc ...Ta cũng nên điều tra thử coi những chữ như Diệu, Tâm, Tịnh, Như , Ngộ có phải thuộc gia đình sùng Phật giáo không? Những chữ Mi có phải là đặc biệt riêng cho gia đình một thuở có con gái đẹp ở đường Hàng Me không? Đối với những gia đình hoàng phái thì sự điều tra còn xoáy vô gia phả tìm hiểu về thế hệ tiền hay hậu biên, chánh hệ hay phiên hệ, về thơ văn sáng tác vì liên hệ đến cách thức đặt tên theo các bộ Hán tự, theo những bài thi làm ra gồm những chữ cho từng thế hệ thuộc nam hay nữ. Còn những gia đình nổi tiếng khoa bảng, hay thi xã, thi đàn thì nhiều khi tên đặt mang một điển tích cổ hay lấy ý từ một bài thi phú ngày xưa. Thường khi điều tra thì có vẻ tọc mạch, nhưng cũng mang lại nhiều điều thú vị, bổ ích cho sự nghiên cứu nghiêm túc mà tôi nghĩ chưa có thể làm được vì thiếu dữ kiện. Những người đầy đủ tư cách làm công việc nghiên cứu đặc biệt về tên những cái tên học trò là những thày giáo, cô giáo nhiều năm ở Huế.

Ngoài yếu tố gia đình cục bộ, người nghiên cứu phải chăng cần phân tách những yếu tố xã hội trong khung cảnh lịch sử, địa lý và nhân văn: Vùng đất cố đô Huế văn vật, thơ mộng hữu tình phải chăng giải thích cung cách đặc biệt cũa những nàng gái Huế cổ truyền mơ mộng, trang nghiêm, trầm lặng đi ra ngoài bao giờ cũng mặc áo dài và đội nón lá dù trời im nắng:

Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ
Tà áo dài trong trắng nhẹ nhàng bay.
Nón bài thơ e lệ nép trong tay
Thầm lặng bước những khi trời dịu nắng
(Bích Lan)

Hình ảnh của những nàng tơn nữ đã nói lên ít nhiều cái cung cách phủ đệ quí phái vang bóng một thủa vàng son:

Gió cầu vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ!
( Đông Hồ)

Hình ảnh này cịn thăng hoa trong lời thơ óng ả của Vũ Hoàng Chương trích trong tập “ Mây” :

Bồng bềnh mun chảy óng lưng thon,
Nhạc tía đền vua chuyển gót son.
Yểu điệu Hương giang mềm nếp áo,
Trầm bay sóng mỏng vạt trăng non.

Và ngay một cô lái đò bình dân ở Huế với chiếc áo dài và vành nón cũng trở thành “yểu điệu” dưới mắt của người thơ:

Thuyền nan đủng đỉnh sau hàng phượng
Cô gái Kim luông yểu điệu chèo
(Nam Trân)

Còn đối với những nàng con gái con nhà hay dân thường cắp Sách đi học nhất là học tại trường École des Jeunes Filles hay tại Đồng Khánh là ngôi trường Nữ Trung học lớn nhất nước mở ra từ năm 1917, họ đương nhiên là mang truyền thống “ yêu Thơ và Nhạc, Lễ”. Lễ là cái trật tự bên ngoài, còn Nhạc là trật tự bên trong. Chính vì sự tôn trọng cái truyền thống ám tàng thầm lặng về tinh thần chuộng “yêøu Thơ và Nhạc, Lễ” đã khiến các bậc cha mẹ của cái xứ văn vật thường kỹ lưỡng trong sự đặt tên, không nhất thiết phải kiều diễm, du dương nhưng ít ra nghe cũng thanh tao, nhũn nhặn, gói ghém cái đẹp ý nghĩa về tinh thần hơn là về thể chất. Phần lớn các vị nếu không phải là những vị hưu quan cựu khoa bảng thuộc Nam triều, những gia đình hoàng phái, tôn thất “tiếng cả nhưng nhà thanh”, những vị hàn nho từng lẽo đẽo trường ốc một thời, thì ít ra họ cũng thuộc giới trung lưu công tư chức trong ngạch hành chánh mới nhưng còn chuộng cái đẹp của nền cựu học. Đại khái nếu ta nhận xét chung chung về những tên đôi của phụ nữ xứ Huế một thời trước đây, tuy ta không hoàn toàn hiểu cặn kẽ cái ý nghĩa uyên áo ẩn tàng được gói ghém trong những từ ngữ chữ nho thì ta cũng cảm nhận cái thông điệp ca tụng cái nề nếp Công, Ngôn, Dung, Hạnh cho người con gái hay tinh thần chuộng cái đẹp thanh nhã, nhàn tản trong cảnh vật thiên nhiên của người xưa. Tôi còn nhớ câu nói về tiêu chuẩn lý tưởng về tư cách của một phụ nữ Huế là “ thô cũng đặng, mà thanh cũng hay”, ở nhà khi cần thì xốc vác, đảm đang chuyện nhà cực nhọc như gánh nước, chẻ củi, bếp núc lọ lem, ra ngoài thì áo nón chỉnh tề, đi đứng ý tứ, nói năng lễ độ, họp bạn thì ít nhiều cũng góp tiếng ngâm thơ đàn hát. Phải chăng lý tưởng này cũng đã phản ánh qua nhiều cái tên cho phái nữ mà các cụ muốn gửi gắm tâm nguyện dạy hai chữ “thanh thô” hay “ nhạc lễ“ cho các con gái sau này về làm vợ, làm dâu? Bản thân tôi thì học hỏi ăn đong chữ Hán nhưng cũng mù mờ hiểu tên Minh Đức hay Tri Túc là lấy từ câu trong Sách xưa về đạo tu thân như Tại minh minh đức, hay Tri túc tiện túc hà thời túc...hay Thứ Vọng nói lên cái ước nguyện sống hài hoà trong tinh thần hỉ xả tha thứ với tha nhân; Túy Thiện phải chăng là mê say điều thiện hảo. Cái tên Hồng Nghê phải chăng là cái mầu hồng trên cái cầu vồng mà vị thâm nho thích ngắm nhìn khi trời mới tạnh mưa với con mắt nghệ sĩ? Nghe nói ở Huế có gia đình lấy chữ Nghê đặt cho những o con gái của mình? Cái tên Đạp thanh (dẵm lên cỏ xanh non) rõ ràng nói đến sự du xuân chạp mộ vào tiết Thanh minh trên núi Ngự. Tên Miên Hoa phải chăng đặt ra là để ghi lại kỷ niệm của mùa bông gòn nở....

Qua việc tìm hiểu cách đặt tên, tôi lại cơ duyên đặc biệt hiểu thêm nhiều điều lý thú, ví dụ như chữ Diệu nhuốm màu Phật pháp của đại đa số cô gái giòng Nguyễn-khoa ở Huế! Tôi chỉ nói là “đại đa so”á thôi, ví dụ như bà Bội Lan ( con gái cụ Nguyễn khoa Vy), các bà Phương Dung, Phương Mai con gái của cụ Nguyễn khoa Du, họ không còn Diệu nữa! Ngược lại, cũng có một số bà giòng họ khác thích chọn chữ Diệu như Diệu Nhơn, Diệu Ngãi, Diệu Lễ ( em ruột b/s Quyến ?).

Vọng tộc Nguyễn khoa ở Huế nguyên thủy là họ Nguyễn–đình có tổ quán là làng Trạm Bạc, tỉnh Hải dương ngoài Bắc nhưng theo chúa Nguyễn Hoàng mà vào Nam và sau đó cải thành họ Nguyễn–khoa. Giòng Nguyễn-khoa có ông Nguyễn khoa Đăng chức Nội tán là vị danh nhân cóø công nghiệp dẹp giặc cướp tại truông nhà Hồ nên được dân gian ca tụng trong câu ca dao:

Nhớ em, anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang!
Phá Tam giang, ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ, Nội táng cấm nghiêm!

Họ Nguyễn khoa là một giòng họ có truyền thống rất sùng đạo Phật, ưa xây chùa lấy công đức , thích vun xới phước điền như ông Nguyễn khoa Thuyên tước Hiến chương hầu khi về hưu lập Long Quang tự tại Vĩnh long mà tu. Trước khi về hưu tại Vĩnh long, ông đã lập một cảnh chùa tại Bình định là chùa Linh Phong mà dân địa phương quen gọi là Chùa Ông núi. Riêng đặc biệt ở Huế vùng Tây thượng có chùa Ba la mật do ông Án sát Nguyễn khoa Luận khai sơn và tu trụ trì với pháp danh là Viên giác thuộc đời thứ 41 dòng Thiếu lâm tế ở Việt nam, đệ tử của ông về sau là sư Viên thành và sư Thích Trí thủ. Về sau, lại có ông thượng thư bộ Hộ là Nguyễn khoa Tân từng làm chánh hội trưởng hội Phật học miền Trung và ông thượng thư bộ Kinh tế là Nguyễn khoa Kỳ lập chùa An lạc dưới chân núi Ngự bình. Lại có ông Nguyễn khoa Toàn, chữ nghĩa thông thái, vẽ đẹp , đàn hay chưa đủ lại còn kiêm tài nắn pho tượng Phật tại chùa Từ đàm nữa. Đi tu tức là như vun xới khu đất phước đức cho con cháu, và hạnh bố thí cho chúng nhân nên ta không lấy làm lạ tại sao trong dòng Nguyễn khoa có những tên Diệu Phước, Diệu Hạnh, Diệu Điền...

Cũng trong việc tìm hiểu về tên, tôi lại gặp tên Như Ngộ cũng rất nhuốm màu Phật pháp vì “ngộ” tức là tỉnh ngộ, thoát khỏi u mê còn “như”thì nhắc tôi nhớ câu thơ đầu của cuốn sự tích của Phật bà Quan âm Hương tích nguyên là Chúa ba Diệu Thiện là “ Chân như đạo Phật rất mầu, Báo ân chữ Hiếu, niệm đầu chữ Tâm”.

Tôi nghĩ rằng thuở trước đây hồi Nho giáo còn thịnh thì mỗi cái tên mà gia đình nào đặt cho con, không ít thì nhiều cũng có một sự tích hay liên quan đến một qui cách chữ nghĩa nào đó hay một kỷ niệm riêng tư nào đó. Cái tên Giáng Châu – viên ngọc trời cao ban xuống – chính là trái măng cụt trong Nam đem ra di thực ở Huế trồng ở sơn lăng. Vua Minh Mạng rất ưa ăn nên đã ban cho cái ngự danh “ giáng châu tử” (Đại Nam nhất thống chí- Phủ thừa Thiên). Nhà vua nguyên đẻ ra là dân Nam rất mê ăn canh chua nên cũng đem trái tầm duộc trong Nam ra trồng và cũng ban cho ngự danh là “ Thanh Châu tử” và làm thơ ca tụng trái tầm duộc với bài “ Vịnh Thanh Châu tử” trong tập Minh Mạng thánh chế”. Sở dĩ gọi là “Thanh châu” –viên ngọc trai xanh” vì tầm duộc lúc chín vẫn giữ màu xanh. Còn quí bạn biết không, cái mỹ danh “Nam Trân” (hình như là phương danh của một vị phụ nữ giòng Thân trọng) chính là trái lòn bon mà vua này cũng khoái, bắt đem trồng ở sơn lăng.

Khuôn khổ giấy không cho tôi bút khảo dông dài. Tôi chỉ nêu lên vài đặc thù cũng như về vài sự tích quanh những cái tên gọi ở cái đất Thần kinh cổ kính mà tôi có dịp lượm lặt. Điều này không có nghĩa là những tên phụ nữ Việt Nam ở ngoài Bắc hay trong Nam, kém hay, kém đẹp và không có những nét đặc thù và ý nghĩa riêng biệt đáng nghiên cứu đâu! Phụ nữ ở đâu cũng một vưu vật của vũ trụ cả.

Nhìn chung, than ôi, chúng ta là những kẻ hậu sinh trong một giai đoạn lịch sử đã xoay chiều, đối với cái chiều dầy của nền văn học cũ uyên áo thâm thúy thì chúng ta đành thú nhận là dốt nát khi tìm hiểu toàn bộ những cái tên của những phụ nữ Việt nam – trong đó xứ Huế đã đóng góp một phần đáng kể trong một thuở nào? Phải chăng đó là những thông điệp bằng ngôn từ chúc nguyện hay Giáo dục về trau dồi đức hạnh cùng là quan niệm nghệ thuật trang nhã được cô đọng gửi gắm cho lũ con đàn cháu mà những bậc sinh thành muốn truyền đạt để chúng noi theo dựa vào thuyết chính danh. Riêng ở Huế, những cái tên thâm thúy hay đẹp đặt ra kể từ thập niên 50-60 về trước, dần mai một, một loại“trân quí đang bị thất truyền” (endangered species!) về văn hóa vì cái dư vị Nho học, cái cung cách Huế thuần túy phai lạt hay tắt ngúm với sự ra đi vĩnh viễn của các ôn, các mệ thâm nho rồi.

LÊ VĂN LÂN

asahi sưu tập
__________________
Add: 67 B Ông Ích Khiêm, Huế

Bài được Đêm Đông sửa đổi lần cuối vào ngày 26-08-2010, lúc 22:13
Trả Lời Kèm Trích Dẫn Bài Này
11 Thành viên sau đây nói lời CẢM ƠN bạn asahi vì đã gửi Bài viết hữu ích này:
anh_thu (05-09-2010), chie (26-08-2010), chienbinh (26-08-2010), hat_de (26-08-2010), hoavienquanbl (27-08-2010), huuhuetran (31-08-2010), lantham_0072005 (27-08-2010), manh thuong (27-08-2010), Tien (27-08-2010), tridatinh (26-08-2010), trithuc_nguyen (27-08-2010)
Trả lời

Công Cụ
Hiển Thị Bài

Quyền hạn của Bạn trong mục này
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

BB code đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến:

Những Đề tài tương tự
Ðề Tài Người Tạo Đề Tài
Chuyên Mục
Trả Lời Bài Mới Nhất
Hoa Kỳ có chiến hạm mang tên thành phố Huế Poetry Lịch sử - Xã hội - Chính trị - Kinh tế ở Việt Nam 1 12-07-2019 02:05
Huế Đẹp, Huế Xinh, Huế Nên Thơ HanParis Nước Việt mến yêu 7 24-03-2014 17:37
Tên tác giả và tên bức tranh tem Đài Loan theloveofsiam83 Cùng nhau giải đáp 5 16-09-2013 20:19
Không tên họa sĩ!? Ng.H.Thanh Cùng nhau giải đáp 0 08-01-2011 09:12
Những sai sót về tên, tên khoa học trên tem. duca Những sai sót, nhầm lẫn về kiến thức trên Tem Việt Nam 11 05-11-2008 20:24



©2007-2024 Diễn đàn Viet Stamp
Cơ quan chủ quản: Câu lạc bộ sưu tập tem Viet Stamp (VSC)
Giấy xác nhận cung cấp dịch vụ mạng xã hội trực tuyến số 87/GXN-TTĐT
do Cục Quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử cấp ngày 31-08-2011
Chịu trách nhiệm chính: Ông Hoàng Anh Thi - Chủ nhiệm VSC
Bản quyền thuộc VSC. Địa chỉ: 2/47 Phan Thúc Duyện, Phường 4, Quận Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Điện thoại: (08) 38111467 – Website: vietstamp.net.vn – Email: vietstamp.net@gmail.com – Hotline: 0918 636 791
Vui lòng ghi rõ nguồn “Viet Stamp” khi phát hành lại thông tin từ diễn đàn này.
--------------------
Mã nguồn: vBulletin v3.8.3 & Copyright © 2024, Jelsoft Enterprises Ltd.
Diễn đàn Viet Stamp có giấy phép sử dụng từ Jelsoft Enterprises Ltd.